Đánh giá chỉ số bền vững cho chất dinh dưỡng trong hệ thống trồng cây năng lượng ngắn hạn
Tóm tắt
Trong các môi trường khô hạn, việc luân canh cây trồng và nông nghiệp trong khoảng thời gian từ 3 đến 5 năm đại diện cho một nguồn nguyên liệu sinh học tiềm năng lớn và là một phương tiện để phục hồi sự cân bằng thủy học của cảnh quan cũng như cải tạo môi trường, đồng thời duy trì sản xuất thực phẩm. Ở những vùng đất có độ phì tự nhiên thấp, khả năng bền vững lâu dài của các hệ thống này sẽ bị ảnh hưởng nghiêm trọng bởi trạng thái dinh dưỡng của địa điểm và chu trình dinh dưỡng tiếp theo. Một chỉ số tiếp nhận dinh dưỡng (NAI) đã được phát triển để cho phép so sánh khả năng tiếp nhận dinh dưỡng của các loài và thành phần cây, đồng thời tối ưu hóa quản lý dinh dưỡng, thông qua việc định lượng các chiến lược khác nhau để quản lý dinh dưỡng của địa điểm. Khối lượng sinh khối, xuất khẩu dinh dưỡng và hiệu quả sử dụng dinh dưỡng đã được đánh giá cho ba loài cây trồng ngắn hạn. Xuất khẩu dinh dưỡng sau thu hoạch ở năm thứ 3 với mật độ cao (4000 cây/ha) thường cao hơn một cách nhất quán ở
Từ khóa
#chỉ số bền vững #sinh khối #chất dinh dưỡng #luân canh cây trồng #môi trường khô hạnTài liệu tham khảo
Bolland MDA, 2000, The Wheat Book: Principles and Practice, 106
Bolland MDA, 2003, Sorption of phosphorus by soils, how it is measured in Western Australia, Department of Agriculture Western Australia
Campbell JE, 2008, The global potential of bioenergy on abandoned agriculture lands, Environmental Science & Technology, 42, 1
Cox WJ, 1980, Potassium for crops and pastures in medium and low rainfall areas, Journal of Agriculture, Western Australia, 21, 12
Grove TS, 2007, Nutrient management of intensively harvested oil mallee tree crops, Rural Industries Research and Development Corporation
Harper RJ, 2000, Phase farming with trees: a scoping study of its potential for salinity control, soil quality enhancement and farm income improvement in dryland areas of southern Australia, Rural Industries Research and Development Corporation
Harper R, 2008, Phase farming with trees: field validation of the tree phase, Rural Industries Research and Development Corporation
Kumar BM, 1998, Comparison of biomass production, tree allometry and nutrient use efficiency of multipurpose trees grown in woodlot and silvopastoral experiments in Kerala, India, Forest Ecology and Management, 14, 5
McArthur WM, 1991, Reference Soils of South‐western Australia
Rayment GE, 1992, Australian Laboratory Handbook of Soil and Water Chemical Methods
Squires V, 1991, Dryland Farming: A Systems Approach. An Analysis of Dryland Agriculture in Australia
Sweeney RA, 1987, Comparison of LECO FP‐228 ‘nitrogen determinator’ with AOAC copper catalyst Kjeldahl method for crude protein, Journal of the Association of Official Analytical Chemists, 70, 1028
Turner J, 1977, Soil chemical properties under naturally regenerated Eucalyptus spp. and planted Douglas‐fir, Australian Forest Research, 7, 163
Vance ED, 2010, Research strategies for increasing productivity of intensively managed forest plantations, Journal of Forestry, 108, 183