Khảo Sát Châu Âu Về Việc Ứng Dụng Kẹp Mạch Trong Phẫu Thuật Gan

Digestive Surgery - Tập 24 Số 6 - Trang 423-435 - 2007
Jarmila D. W. van der Bilt1, Daan P. Livestro1, A. Borren1, Richard van Hillegersberg1, I.H.M. Borel Rinkes1
1Univ Med Ctr, University of Groningen, Utrecht University Medical Center, University of Utrecht, Dept Surg

Tóm tắt

<i>Bối cảnh:</i> Nghiên cứu này đánh giá tần suất, chỉ định và kỹ thuật kẹp mạch trong quá trình cắt gan và các liệu pháp phá hủy bằng nhiệt, như đã được sử dụng bởi các bác sĩ phẫu thuật gan trên toàn châu Âu. <i>Phương pháp:</i> Một bảng hỏi trực tuyến đã được phân phát tới 621 bác sĩ, bao gồm tất cả các thành viên của Hiệp hội Gan-Tụy-Mật châu Âu và Hiệp hội Phẫu thuật châu Âu. <i>Kết quả:</i> Tỷ lệ phản hồi chung là 50%. Trong quá trình cắt gan, có 10% không bao giờ áp dụng kẹp mạch, 71% dựa trên chỉ định và 19% là thường xuyên. Việc kẹp mạch thường xuyên chủ yếu được thực hiện bởi các bác sĩ phẫu thuật có khối lượng ca lớn và các bác sĩ có kinh nghiệm, và dường như liên quan đến thời gian thiếu máu dài hơn. Phương pháp chẹn mạch ngắt quãng là phương pháp được ưa chuộng bởi hơn 65% các bác sĩ phẫu thuật và thời gian thiếu máu thường được giới hạn trong khoảng 15–30 phút. Trong quá trình thuyên tắc nhiệt, 57% không bao giờ sử dụng kẹp mạch, 37% dựa trên chỉ định và 7% là thường xuyên; nó chủ yếu được áp dụng cho các khối u lớn và các khối u gần các mạch máu lớn, và thời gian thiếu máu ngắn hơn. <i>Kết luận:</i> Việc kẹp mạch trong quá trình cắt gan thường xuyên được sử dụng; trong quá trình thuyên tắc nhiệt, nó được bảo tồn cho các khối u lớn hơn hoặc các khối u lân cận với các mạch lớn. Ngắt hoàn toàn dòng chảy là kỹ thuật được sử dụng phổ biến nhất, với sự ưa thích rõ rệt cho việc kẹp ngắt quãng.

Từ khóa


Tài liệu tham khảo

10.1002%2Flt.20040

10.1146%2Fannurev.med.56.082103.104630

10.1038%2Fsj.bjc.6603033

10.1002%2Fbjs.4018

10.1097%2F00000658-200306000-00015

10.1046%2Fj.1365-2168.1999.01059.x

10.1097%2F00000658-200302000-00005

10.1002%2Fbjs.5581

10.1002%2Fbjs.1800840914

10.1002%2F%28SICI%291096-9101%281998%2923%3A1%3C40%3A%3AAID-LSM6%3E3.0.CO%3B2-W

10.1097%2F00000658-199804000-00018

10.1002%2Fhep.20739

10.1097%2F00000658-199608000-00007

10.1097%2F00000658-199903000-00010

10.1001%2Farchsurg.136.5.569

10.1097%2F01.sla.0000098620.27623.7d

10.1016%2FS0039-6109%2803%2900231-7

10.1007%2Fs00268-005-0025-x

10.1016%2Fj.amjsurg.2004.10.007

10.1002%2Fbjs.5382

10.1007%2Fs005950200155

10.1159%2F000129415

10.1053%2Fjhep.2000.20528

10.1016%2Fj.surg.2006.03.023

10.1016%2Fj.jamcollsurg.2005.01.024

10.1097%2F01.sla.0000193603.26265.c3

10.1016%2Fj.surg.2005.09.023

10.1200%2FJCO.2005.05.3074

10.1007%2FPL00009953

10.1001%2Farchsurg.134.5.533

10.1002%2Fbjs.1800780115

10.1016%2FS0002-9610%2801%2900555-4

10.1002%2Fbjs.5301

10.1097%2F01.sla.0000189121.35617.d7

10.1007%2Fs00268-005-0192-9

10.1002%2Fbjs.5170

10.1016%2Fj.ejso.2006.07.013

10.1046%2Fj.1365-2168.1998.00795.x

10.1016%2FS1072-7515%2898%2900240-3

10.1016%2FS1091-255X%2800%2980052-9

10.1016%2Fj.amjsurg.2003.12.001

10.1007%2Fs00534-005-1023-y

10.1097%2F01.sla.0000171032.99149.fe

10.1067%2Fmsy.2002.127545