Tác động của các kỹ thuật chuẩn bị tinh trùng tới khả năng sống sót và phân mảnh DNA của tinh trùng

Minh Tâm Lê1,2, Hong Nhan Thi Dang1, Trung Van Nguyen1, Thai Thanh Thi Nguyen1, Vũ Quốc Huy Nguyễn2, Ngọc Thành Cao1,2
1Center for Reproductive Endocrinology and Infertility, Hue University of Medicine and Pharmacy, Hue University, Vietnam
2Department of Obstetrics and Gynecology, Hue University of Medicine and Pharmacy, Hue University, Vietnam

Tóm tắt

Mục tiêu

Nghiên cứu này được thực hiện để xác định tác động của phương pháp bơi lên (SU) và ly tâm độ đặc (DGC) đối với sự sống sót của tinh trùng và phân mảnh DNA.

Phương pháp

Các mẫu tinh dịch riêng lẻ được phân tích trước khi mỗi mẫu được chia thành hai phần (nửa cho SU và nửa cho DGC) để tính toán sự sống sót của tinh trùng và chỉ số phân mảnh DNA (DFI). Phân mảnh DNA của tinh trùng được xác định bằng cách sử dụng phương pháp khuếch tán nhiễm sắc thể tinh trùng.

Kết quả

DFI của 63 mẫu tinh dịch được xử lý bằng cả hai phương pháp thấp hơn so với các mẫu tinh dịch tươi. DFI của các mẫu được xử lý bằng phương pháp SU thấp hơn đáng kể so với phương pháp DGC. Trong bài kiểm tra sống sót của tinh trùng, kỹ thuật SU có liên quan đến sự gia tăng khả năng di chuyển và sức sống của tinh trùng sau khi chuẩn bị. Tuy nhiên, sau 24 giờ, nồng độ và tỷ lệ tinh trùng sống sót lại thấp hơn đáng kể trong nhóm SU so với nhóm DGC.

Kết luận

Cả hai kỹ thuật chuẩn bị tinh dịch đều giúp giảm thiểu phân mảnh DNA của tinh trùng; tuy nhiên, khi DFI < 30%, kỹ thuật SU là phù hợp hơn so với DGC. Trong khi DGC có thể vượt trội cho thụ tinh trong tử cung, phương pháp SU có thể được ưu tiên cho thụ tinh in vitro hoặc trưởng thành tinh trùng.

Từ khóa


Tài liệu tham khảo

10.4103/0974-1208.170370

10.1186/s12958-015-0032-1

10.1056/NEJMoa003005

10.1016/j.fertnstert.2010.04.049

Agarwal A, 2004, Minerva Ginecol, 56, 235

Shamsi MB, 2008, Indian J Med Res, 127, 115

10.1016/j.repbio.2015.03.003

10.1371/journal.pone.0165125

10.1016/j.fertnstert.2019.04.029

10.1016/j.urology.2010.04.036

10.1007/978-1-62703-038-0_14

Fernández JL, 2003, J Androl, 24, 59, 10.1002/j.1939-4640.2003.tb02641.x

10.1093/humupd/dmi047

10.1002/j.1939-4640.1988.tb01067.x

10.1016/S0015-0282(99)00295-2

10.1016/S0090-4295(00)00770-6

10.1038/s41598-019-43981-2

10.1007/s10815-018-1163-z

10.1093/humrep/16.9.1950

10.1007/s10815-014-0339-4

10.1007/s10815-014-0287-z

10.1038/srep39051

10.1111/j.2047-2927.2014.00234.x

10.5653/cerm.2017.44.4.201

10.1007/s10815-012-9742-x

Amiri I, 2012, J Clin Diagnostic Res, 6, 1451

10.1038/aja.2011.46

10.1262/jrd.2016-112

10.1186/1477-7827-12-121

10.5653/cerm.2019.46.1.8

10.1016/j.aju.2017.11.001

10.1016/S1472-6483(10)60887-5

10.1007/s10815-009-9359-x