Sự phân chênh khác biệt của δ13C và δ15N giữa các mô của cá: ý nghĩa cho nghiên cứu về tương tác dinh dưỡng

Functional Ecology - Tập 13 Số 2 - Trang 225-231 - 1999
John K. Pinnegar1, Nicholas Polunin1
1Department of Marine Sciences and Coastal Management, University of Newcastle upon Tyne, NE1 7RU, UK

Tóm tắt

1. Các đồng vị ổn định của nito và carbon được sử dụng rộng rãi trong việc đánh giá và hiểu biết về các tương tác dinh dưỡng, đặc biệt là trong các hệ sinh thái thực phẩm dưới nước. Tuy nhiên, sự khác biệt giữa các mô xảy ra ở các sinh vật tiêu thụ như cá có thể làm rối loạn việc xác định những mối quan hệ sinh thái này, và ảnh hưởng lớn đến thành phần chế độ ăn tính toán thông qua các phương trình cân bằng khối lượng.

2. δ13C và δ15N đã được xác định cho cá bột đồng nhất (≈ 2·7 g) và các mô cụ thể (cơ trắng, cơ đỏ, gan và tim) của cá juveniles (≈ 20·6 g) của Cá hồi cầu vồng Oncorhynchus mykiss.

3. Sự khác biệt trong δ13C và δ15N được quan sát thấy giữa các mô; việc loại bỏ lipid đã dẫn đến những mô này trở nên không thể phân biệt thống kê nhưng có sự biến thiên lớn hơn trong δ13C, đặc biệt là ở các mô có hàm lượng lipid cao hơn. Sự khác biệt trong δ15N giữa các mô có thể liên quan đến sự cấu thành tương đối của các axit amin 'thiết yếu' và 'không cần thiết'.

5. Quá trình axit hóa, được sử dụng để giảm biến thiên do sự hiện diện của carbonate vô cơ, đã có tác động đáng kể đến δ15N, trong khi có tác động không đáng kể đến δ13C. Điều này đúng với cá bột nghiền toàn bộ, chứa 22·6% carbonate vô cơ dưới dạng xương và vảy, và đối với các mô cá cá thể chỉ chứa rất ít lượng carbonate vô cơ.

6. Cơ trắng được tìm thấy có ít biến thiên trong δ13C và δ15N hơn tất cả các mô khác, và có thể là mô tốt nhất để sử dụng trong các công việc sinh thái học. Cơ đỏ, thường liên quan chặt chẽ với cơ trắng, có sự biến thiên nhiều hơn trong δ13C và có thể tạo ra nguồn sai số đáng kể trong việc xác định nguyên liệu ban đầu và chồng chéo chế độ ăn.

Từ khóa


Tài liệu tham khảo