Xác định đồ thị nomogram đường kính cóc não thai nhi trong tam cá nguyệt thứ hai

Journal of Fetal Medicine - Tập 6 - Trang 177-182 - 2019
Raziye Desdicioglu1, Ali Ipek2, Kadir Desdicioglu3, Mehmet Gumus4, Ayse Filiz Yavuz1
1Department of Obstetrics and Gynecology, Faculty of Medicine, Ankara Yıldırım Beyazıt University, Ankara, Turkey
2Radiology Clinic, Ankara Atatürk Training and Research Hospital, Ankara, Turkey
3Department of Anatomy, Faculty of Medicine, Ankara Yıldırım Beyazıt University, Ankara, Turkey
4Department of Radiology, Faculty of Medicine, Ankara Yildirim Beyazit University, Ankara, Turkey

Tóm tắt

Mục tiêu của nghiên cứu này là xây dựng đồ thị nomogram của đường kính cóc não thai nhi ở tuần thai 18–24 với tiên lượng đã biết của các thai kỳ bình thường. Nghiên cứu bao gồm 1236 thai nhi khỏe mạnh trong giai đoạn thai 18 đến 24 tuần của các bà mẹ từ 18 đến 40 tuổi (trung bình: 28,70 ± 5,26). Đường kính cóc não, đường kính lưỡng đỉnh, chiều dài xương đùi và chu vi bụng của thai nhi được đo lường. Ngoài ra, các nhóm được phân chia theo độ tuổi của mẹ và theo chỉ số khối cơ thể. Đường kính cóc não của thai nhi từ tuần thai 18 đến 24 thay đổi từ 18,13 ± 2,16 đến 26,42 ± 1,91 mm (trung bình: 22,12 ± 2,57 mm). Thêm vào đó, trung bình và độ lệch chuẩn của đường kính cóc não và các thông số thai nhi được xác định theo tuần thai, tuổi mẹ và chỉ số khối cơ thể của mẹ. Sau đó, các mối tương quan giữa đường kính cóc não với tuần thai, tuổi mẹ, chỉ số khối cơ thể của mẹ và các thông số thai nhi đã được kiểm tra. Đường kính cóc não có mối tương quan với tuần thai và các thông số thai nhi (p < 0,01) nhưng không có mối tương quan với tuổi mẹ (p > 0,01). Ngoài ra, đường kính cóc não và các thông số thai nhi được xác định cho thấy có mối tương quan âm với chỉ số khối cơ thể của mẹ (p < 0,01). So sánh đường kính cóc não với tuần thai xác định sự khác biệt giữa các tuần (p < 0,05), nhưng không có sự khác biệt cho các nhóm tuổi và nhóm chỉ số khối cơ thể (p > 0,05). Tuổi mẹ và chỉ số khối cơ thể của mẹ là các yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến sự phát triển của thai nhi. Chúng tôi tin rằng dữ liệu của chúng tôi liên quan đến đường kính cóc não thu được vào cuối nghiên cứu sẽ có lợi cho việc đánh giá sự phát triển của thai nhi và xác định các dị tật thai nhi.

Từ khóa

#đường kính cóc não thai nhi #tam cá nguyệt thứ hai #thai kỳ bình thường #chỉ số khối cơ thể #sự phát triển thai nhi

Tài liệu tham khảo

Göynümer FG, Arısoy R, Yayla M, Durukan B. Nomogram of fetal transcerebellar diameter at 16–24th gestational weeks. J Turkish-German Gynecol Assoc. 2009;10:21–5. Reddy RH, Prashanth K, Ajit M. Significance of foetal transcerebellar diameter in foetal biometry: a pilot study. J Clin Diagn Res. 2017;11(6):TC01–4. Zalel Y, Seidman DS, Brand N, Lipitz S, Achiron R. The development of the fetal vermis: an in utero sonographic evaluation. Ultrasound Obstet Gynecol. 2002;19(2):136–9. Chavez MR, Ananth CV, Smulian JC, Yeo L, Oyelese Y, Vintzileos AM. Fetal transcerebellar diameter measurement with particular emphasis in the third trimester: a reliable predictor of gestational age. Am J Obstet Gynecol. 2004;191(3):979–84. Jacquemyn Y, Sys SU, Verdonk P. Fetal transverse cerebellar diameter in different ethnic groups. J Perinat Med. 2000;28(1):14–9. Chavez MR, Ananth CV, Smulian JC, Lashley S, Kontopoulos EV, Vintzileos AM. Fetal transcerebellar diameter nomogram in singleton gestations with special emphasis in the third trimester: a comparison with previously published nomograms. Am J Obstet Gynecol. 2003;189(4):1021–5. Chavez MR, Ananth CV, Kaminsky LM, Smulian JC, Yeo L, Vintzileos AM. Fetal transcerebellar diameter measurement for prediction of gestational age in twins. Am J Obstet Gynecol. 2006;195(6):1596–600. Holanda-Filho JA, Souza AI, Souza AS, Figueroa JN, Ferreira AL, Cabral-Filho JE. Fetal transverse cerebellar diameter measured by ultrasound does not differ between genders. Arch Gynecol Obstet. 2011;284(2):299–302. Malik G, Waqar F, Ghaffar A, Zaidi H. Determination of gestational age transverse cerebellar diameter in third trimester of pregnancy. J Coll Phys Surg Pak. 2006;16(4):249–52. Vinkesteijn AS, Mulder PG, Wladimiroff JW. Fetal transverse cerebellar diameter measurements in normal and reduced fetal growth. Ultrasound Obstet Gynecol. 2000;15(1):47–51. Chavez MR, Ananth CV, Smulian JC, Vintzileos AM. Fetal transcerebellar diameter measurement for prediction of gestational age at the extremes of fetal growth. J Ultrasound Med. 2007;26(9):1167–71. Meyer WJ, Gauthier DW, Goldenberg B, Santolaya J, Sipos J, Cattledge F. The fetal transverse cerebellar diameter/abdominal circumference ratio: a gestational age-independent method of assessing fetal size. J Ultrasound Med. 1993;12(7):379–82. Rotmensch S, Goldstein I, Liberati M, Shalev J, Ben-Rafael Z, Copel JA. Fetal transcerebellar diameter in down syndrome. Obstet Gynecol. 1997;89(4):534–7. Winter TC, Ostrovsky AA, Komarniski CA, Uhrich SB. Cerebellar and frontal lobe hypoplasia in fetuses with trisomy 21: usefulness as combined US markers. Radiology. 2000;214(2):533–8. Hill LM, Rivello D, Peterson C, Marchese S. The transverse cerebellar diameter in the second trimester is unaffected by down syndrome. Am J Obstet Gynecol. 1991;164:101–3. Vinkesteijn AS, Jansen CL, Los FJ, Mulder PG, Wladimiroff JW. Fetal transcerebellar diameter and chromosomal abnormalities. Ultrasound Obstet Gynecol. 2001;17(6):502–5.