Nuôi cấy đồng thời tế bào gan với các dòng tế bào tương tự biểu mô: Biểu hiện hoạt động chuyển hóa thuốc của tế bào gan

Cell Biology and Toxicology - Tập 7 - Trang 1-14 - 1991
M. Teresa Donato1, José V. Castell1, M. José Gómez-Lechón1
1Unidad de Hepatología Experimental, Centro de Investigación, Hospital La Fe, Servicio Valenciano de Salud, Valencia, Spain

Tóm tắt

Để cải thiện sự biểu hiện lâu dài của các hoạt động chuyển hóa thuốc trong tế bào gan, chúng tôi đã khảo sát sự phù hợp của một số dòng tế bào tương tự biểu mô (MDCK, MS và L-132) để hỗ trợ các nuôi cấy đồng thời chức năng với tế bào gan chuột. Các tế bào được chọn dựa trên khả năng tương thích với tế bào gan, khả năng hình thành lớp tế bào đơn ổn định trong điều kiện không có huyết thanh và thiếu các hoạt động chuyển hóa thuốc. Sự biểu hiện của các yếu tố riêng lẻ trong hệ thống chuyển hóa được đánh giá trong các nuôi cấy đồng thời này. Tế bào gan được nuôi cấy đồng thời vẫn giữ được tính khả thi và có hình dạng đa giác điển hình trong hơn một tuần. Tùy thuộc vào dòng tế bào được sử dụng, mức độ hoạt động của aryl hydrocarbon hydroxylase và 7-ethoxycoumarin O-deethylase ở tế bào gan đồng nuôi biến đổi từ 24% đến 47% giá trị ban đầu sau 4 ngày nuôi cấy. Mức độ hoạt động monooxygenase cao nhất được phát hiện ở tế bào gan đồng nuôi với tế bào MS (41-47%). Ngược lại, các hoạt động này giảm xuống còn 6% khi các tế bào gan được duy trì trong nuôi cấy thuần khiết trong cùng thời gian. Các hoạt động của các enzyme kết hợp UDP-glucuronyltransferase và glutathione S-transferase được duy trì gần như ở mức ban đầu trong suốt thời gian nghiên cứu, cả trong nuôi cấy thuần và hỗn hợp, bất kể dòng tế bào được sử dụng. Tế bào MS thích nghi tốt hơn nhiều với điều kiện nuôi cấy không có huyết thanh, và việc nuôi cấy đồng thời với tế bào gan chuột cũng dễ thực hiện hơn về mặt kỹ thuật. Sau một tuần, tổng lượng cytochrome P450 và glutathione khử trong nuôi cấy đồng thời tế bào gan chuột/MS đạt 31% và 127% tương ứng so với giá trị ngày O, trong khi chúng không thể phát hiện trong nuôi cấy thuần. Một sự kích thích rõ rệt về hoạt động monooxygenase do methylcholanthrene, phenobarbital và ethanol có thể được quan sát từ ngày thứ 5 trong các nuôi cấy đồng thời tế bào MS/tế bào gan. Thực tế rằng các kết quả của công việc của chúng tôi cho thấy sự phù hợp của tế bào MS, một dòng tế bào có nguồn gốc từ biểu mô, để cải thiện sự biểu hiện của các enzyme chuyển hóa của tế bào gan nuôi cấy mở ra những khả năng mới trong việc đơn giản hóa các nuôi cấy đồng thời để sử dụng trong nghiên cứu chuyển hóa thuốc.

Từ khóa


Tài liệu tham khảo

GOMEZ-LECHON, M.J. and CASTELL, J.V. (1983). The role of fetal calf serum during the first stages of hepatocyte culture. In: Hormonally defined media. A tool in cell biology (A. Fisher and R.J. Wieseer, eds.), pp. 340–343. Springer-Verlag, Berlin.

GREENLEE, W.F. and POLAND, A. (1978). Mainitenance and reversibility of active albumin secretion by adult rat of hepatic enzyme activity in C547 BL/6J and DBA/2J mice by phenobarbital, 3-methylcholanthrene and 2,3,7,8-tetrachlorobenzo-p-dioxin. J. Pharmacol. Exp. Ther. 205:569–605.

LANGENBACH, R., MALICK, L., TOMPA, A., KUSZYNSKI, C., FREED, H., and HUBERMAN, E. (1979). Maintenance of adult rat hepatocytes on C3H/1OT1/2 cells. Cancer Res. 39:3509–3514.

LOWRY, O.H., ROSENBROUGH, N.J., FARR, A.L. and RANDALL, R.J. (1951). Protein measurement with the Folin phenol reagent. J. Biol. Chem. 193:265–275.

REID, L.M., NARITA, M., FUJITA, M., MURRAY, Z., LIVERPOOL C. and ROSENBERG, L. (1986). Matrix and hormonal regulation in liver cultures. In: Research in isolated and Culture Hepatocytes (A. Guillouzo and C. Guguen-Guillouzo, eds.), pp. 225–258. John Libbey Eurotext Ltd./INSERM, London.