Đặc điểm bệnh lý - lâm sàng của ung thư tế bào nhẫn tại dạ dày

ANZ Journal of Surgery - Tập 74 Số 12 - Trang 1060-1064 - 2004
Dong Yi Kim1, Young Kyu Park1, Jae Kyoon Joo1, Seong Yeob Ryu1, Young Jin Kim1, Shin Kon Kim1, Jae Hyuk Lee1
1Division of Gastroenterologic Surgery, *Departments of Surgery and †Pathology, Chonnam National University Medical School, Gwangju, Korea

Tóm tắt

Đặt vấn đề:  Ung thư tế bào nhẫn (SRC) tại dạ dày có đặc trưng là tiên lượng kém và khả năng xâm lấn vào thành dạ dày, mặc dù các nghiên cứu sinh tồn so sánh giữa các loại ung thư có và không có đặc điểm SRC đã cho kết quả không đồng nhất. Nghiên cứu này so sánh các đặc điểm bệnh lý - lâm sàng và tiên lượng của bệnh nhân bị ung thư SRC với bệnh nhân bị ung thư dạ dày không tế bào nhẫn (NSRC).

Phương pháp:  Chúng tôi đã xem xét hồ sơ của 2358 bệnh nhân được chẩn đoán bị ung thư dạ dày và được điều trị phẫu thuật từ tháng 1 năm 1980 đến tháng 12 năm 1999 tại Khoa Phẫu thuật, Bệnh viện Đa khoa Quốc gia Chonnam. Trong số đó, có 204 bệnh nhân (8.7%) bị ung thư SRC so với 2154 bệnh nhân bị NSRC.

Kết quả:  Có sự khác biệt đáng kể về độ tuổi trung bình của bệnh nhân, kích thước khối u trung bình, độ sâu xâm lấn, tỷ lệ di căn hạch bạch huyết và di căn khu vực, giai đoạn khối u và khả năng chữa trị giữa bệnh nhân có mô học SRC và NSRC. Không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về giới tính, vị trí hoặc sự lan rộng vào khoang phúc mạc giữa bệnh nhân bị ung thư SRC và NSRC. Ung thư tế bào nhẫn của dạ dày có tỷ lệ ung thư dạ dày giai đoạn đầu cao hơn (46.1%) so với NSRC (21.7%). Tỷ lệ sống sót tổng thể trong 5 năm của tất cả bệnh nhân bị ung thư SRC là 60.2% so với 48.9% ở bệnh nhân NSRC (P < 0.01). Sử dụng mô hình tỷ lệ nguy cơ tỷ lệ Cox, di căn hạch bạch huyết và khả năng chữa trị là các yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến kết quả. Mô học tế bào nhẫn không phải là một yếu tố tiên lượng độc lập.

Kết luận:  Bệnh nhân có mô học SRC không có tiên lượng xấu hơn bệnh nhân có các loại ung thư dạ dày khác.

Từ khóa


Tài liệu tham khảo

10.1007/BF00432651

10.1007/BF00712735

10.1111/apm.1965.64.1.31

10.1002/1097-0142(19810215)47:4<780::AID-CNCR2820470424>3.0.CO;2-G

10.1002/1097-0142(197706)39:6<2475::AID-CNCR2820390626>3.0.CO;2-L

Sugano H, 1982, Pathological studies of human gastric cancers, Acta Pathol. Jpn, 32, 329

10.1002/1097-0142(19820815)50:4<775::AID-CNCR2820500425>3.0.CO;2-W

Nishi M, 1995, Japanese Classification of Gastric Carcinoma., 6

Hermanek P, 1987, TNM Classification of Malignant Tumours., 43, 10.1007/978-3-642-82982-6

Davis GR, 1993, Gastrointestinal Disease., 763

10.1002/1097-0142(19920401)69:7<1645::AID-CNCR2820690702>3.0.CO;2-X

Theuer CP, 1999, Signet ring cell histology is associated with unique clinical features but does not affect gastric cancer survival, Am. Surg., 65, 915, 10.1177/000313489906501004

Kim JP, 1994, Prognostic significance of signet ring cell carcinoma of the stomach, Surg. Oncol., 50, 775

10.1007/BF00308791

10.1002/(SICI)1096-9098(199804)67:4<216::AID-JSO2>3.0.CO;2-B

10.1016/0002-9610(89)90305-X

10.1002/cncr.10120

10.1002/1097-0142(19901201)66:11<2331::AID-CNCR2820661113>3.0.CO;2-H

Maehara Y, 1991, Prognostic factors in adenocarcinoma in the upper third of the stomach, Surg. Gynecol. Obstet., 173, 223

10.1007/BF02303796

Yokota T, 2002, Is tumour size a prognostic indicator for gastric carcinoma?, Anticancer Res., 22, 3673