Độc tố Botulinum loại A trong điều trị phòng ngừa chứng đau đầu căng cấp tính mãn tính: Nghiên cứu đa trung tâm, mù đôi, ngẫu nhiên, đối chứng giả dược, nhóm song song

Cephalalgia - Tập 26 Số 7 - Trang 790-800 - 2006
SD Silberstein1, Hartmut Göbel2, Rigmor Jensen3, A. Elkind4, Ronald E. DeGryse5, JMCM Walcott5, Catherine C. Turkel5
1Jefferson Headache Center, Thomas Jefferson University, Philadelphia, PA, USA
2Kiel Pain Clinic, University of Kiel, Kiel, Germany
3Danish Headache Centre, Department of Neurology, University of Copenhagen, Copenhagen, Denmark
4Elkind Headache Center, Mount Vernon, NY and
5Allergan, Inc., Irvine, CA, USA

Tóm tắt

Chúng tôi đã nghiên cứu độ an toàn và hiệu quả của 0 U, 50 U, 100 U, 150 U (năm địa điểm), 86 Usub và 100 Usub (ba địa điểm) độc tố botulinum loại A (BoNTA; BOTOX®; Allergan, Inc., Irvine, CA, Hoa Kỳ) trong việc phòng ngừa tình trạng đau đầu căng tính mãn tính (CTTH). Ba trăm bệnh nhân (62,3± nữ; độ tuổi trung bình 42,6 năm) đã tham gia. Đối với chỉ tiêu chính, sự thay đổi trung bình từ cơ sở về số ngày không bị đau đầu căng mỗi tháng, không có sự khác biệt thống kê có ý nghĩa giữa giả dược và bốn nhóm BoNTA, nhưng đã quan sát thấy sự khác biệt có ý nghĩa ủng hộ giả dược so với BoNTA 150 (4,5 so với 2,8 ngày không đau đầu căng/tháng; P = 0,007). Tất cả các nhóm điều trị đều cải thiện vào ngày thứ 60. Mặc dù hiệu quả không được chứng minh cho chỉ tiêu chính, tại ngày 90, nhiều bệnh nhân trong ba nhóm BoNTA có giảm ≥50± số ngày bị đau đầu căng so với nhóm giả dược (P ≤ 0,024). Phần lớn các sự kiện bất lợi liên quan đến điều trị đều nhẹ hoặc trung bình và thoáng qua. BoNTA được cho là an toàn và được dung nạp tốt trong nghiên cứu này.

Từ khóa

#độc tố botulinum loại A #đau đầu căng #điều trị phòng ngừa #nghiên cứu đa trung tâm #giả dược #nhóm song song

Tài liệu tham khảo

10.1001/jama.279.5.381

10.1111/j.1526-4610.1988.hed2809590.x

10.1016/0304-3959(91)90198-7

10.1046/j.1468-2982.1991.1103135.x

10.1046/j.1468-2982.1999.019006602.x

10.1046/j.0333-1024.2001.00251.x

10.1046/j.1468-1331.2003.00570.x

10.1046/j.1468-2982.2000.00070.x

10.1046/j.1468-1331.2003.00531.x

10.1111/j.1468-2982.2003.00644.x

10.1046/j.1526-4610.43.7s.4.x

10.1046/j.1526-4610.43.7s.3.x

10.1016/j.pain.2003.10.008

10.1111/j.1526-4610.2004.04007.x

10.1007/s00415-003-0971-x

10.1046/j.1526-4610.43.7s.5.x

10.1111/j.1468-1331.1999.tb00044.x

10.1046/j.1526-4610.2000.00066.x

10.1067/mhn.2000.110960

10.1007/s10194-003-0049-2

10.1046/j.1526-4610.2003.03163.x

10.1586/14737175.4.1.27

10.1007/s10194-004-0077-6

10.1111/j.1468-2982.2004.00641.x

10.1046/j.1526-4610.2001.041007658.x

10.1111/j.1468-2982.2004.00754.x

10.1111/j.1468-2982.2004.00738.x

10.1111/j.1526-4610.2005.05066.x

10.4065/80.9.1126

10.1007/s00415-004-1104-x

Headache Classification Committee of the International Headache Society., 1988, Cephalalgia, 8, S1, 10.1046/j.1468-2982.1988.0801001.x

10.1046/j.1468-2982.2003.00529.x

Jankovic J, 1998, Adv Neurol, 78, 169

10.1056/NEJMoa011892

10.1212/WNL.56.10.1290

10.1016/0304-3959(94)90048-5

Lang AM, 2000, Am J Pain Manage, 10, 108

10.1046/j.1526-4610.2002.02234.x

10.1046/j.1526-4610.2003.03167.x