Điều trị bằng bortezomib cho viêm não kháng thể chống thụ thể NMDA nặng và khó điều trị

Annals of Clinical and Translational Neurology - Tập 5 Số 5 - Trang 598-605 - 2018
Yong‐Won Shin1,2, Soon‐Tae Lee1, Tae‐Joon Kim1, Jin‐Sun Jun3, Kon Chu1
1Department of Neurology, Seoul National University Hospital, Seoul, South Korea
2Yeongjusi Health Center, Gyeongsangbuk-do, South Korea
3Department of Neurology, Kyungpook National University Chilgok Hospital, Daegu, South Korea

Tóm tắt

Tóm tắtMục tiêu

Đánh giá tiềm năng điều trị của bortezomib, một chất ức chế proteasome nhắm vào các tế bào plasma, nhằm phục hồi sự hồi phục bị đình trệ ở bệnh nhân viêm não do thụ thể chống N-methyl-d-aspartate (NMDA) mà vẫn nằm liệt giường ngay cả sau khi điều trị miễn dịch tích cực.

Phương pháp

Chúng tôi liên tiếp tuyển chọn các bệnh nhân bị viêm não do thụ thể chống NMDA mà vẫn nằm liệt giường sau các liệu pháp miễn dịch đầu tay (steroides và immunoglobulin truyền tĩnh mạch), liệu pháp miễn dịch thứ hai (rituximab) và điều trị tocilizumab, và điều trị cho họ bằng bortezomib tiêm dưới da. Phản ứng lâm sàng, hồi phục chức năng và sự thay đổi trong titer kháng thể trong huyết thanh và dịch não tủy đã được đo lường.

Kết quả

Trước khi điều trị bằng bortezomib, năm bệnh nhân bị viêm não kháng thể chống NMDA nặng và khó điều trị đã ở trong trạng thái thực vật. Trong thời gian theo dõi 8 tháng, ba bệnh nhân đã cải thiện thành trạng thái ý thức tối thiểu trong vòng 2 tháng điều trị bortezomib, một bệnh nhân không cải thiện từ trạng thái thực vật. Tuy nhiên, không có bệnh nhân nào đạt được hồi phục chức năng như đã đo bằng điểm số thang đo Rankin sửa đổi (mRS). Ba bệnh nhân đã được tiến hành điều trị với chế độ cyclophosphamide kết hợp bortezomib và dexamethasone, nhưng chỉ dẫn đến các biến cố bất lợi thêm, mà không có cải thiện mRS. Trong số bốn bệnh nhân có theo dõi titer kháng thể, hai người cho thấy giảm một nửa titer kháng thể trong huyết thanh và/hoặc dịch não tủy sau 2 chu kỳ điều trị bortezomib.

Giải thích

Mặc dù có một số cải thiện ở các bệnh nhân nặng và khó điều trị, phản ứng lâm sàng với bortezomib là hạn chế và không rõ ràng khác biệt so với diễn biến tự nhiên của bệnh. Lợi ích lâm sàng của bortezomib trong các nghiên cứu gần đây cần được xác thực thêm trong các bối cảnh lâm sàng khác nhau.

Từ khóa


Tài liệu tham khảo

10.1016/S1474-4422(12)70310-1

10.1586/14737175.2015.1115720

10.1212/WNL.0000000000002635

10.1177/1756285617722347

10.1007/s13311-016-0442-6

10.1016/j.jneuroim.2016.09.001

10.1038/nrrheum.2011.1

10.1158/0008-5472.CAN-06-2258

10.1016/S1474-4422(13)70072-3

10.1001/jamaneurol.2016.2588

10.1212/WNL.0000000000003536

10.1016/j.jneuroim.2017.08.011

10.1007/s00415-017-8407-1

10.14581/jer.16010

10.1016/j.jneuroim.2015.11.012

10.1016/S1474-4422(15)00401-9

10.1182/blood-2010-02-271676

10.1182/blood-2010-07-294983

GuyW.Clinical Global Impression Scale. In: The ECDEU Assessment Manual for Psychopharmacology‐Revised. Rockville MUDH Education and Welfare Public Health Service Alcohol Drug Abuse and Mental Health Administration NIMH Psychopharmacology Research Branch Division of Extramural Research Programs; 1976:218‐222. DHEW publication ADM 76‐338.

Common Terminology Criteria for Adverse Events(CTCAE v4.0). Available:https://evs.nci.nih.gov/ftp1/CTCAE/CTCAE_4.03_2010-06-14_QuickReference_5x7.pdf. Accessed 2017 December 20.

10.1016/S1474-4422(13)70282-5

10.1136/annrheumdis-2014-206016

10.1097/RHU.0000000000000210

10.1007/s00277-016-2804-x

10.1001/jamaneurol.2017.1336

10.1177/1756285617721093

10.1186/s13075-015-0529-1

10.1212/WNL.0b013e318228c136

10.1016/j.nbd.2016.01.008

10.1212/WNL.0000000000003545

10.1002/ana.24721