Mối liên quan giữa tình trạng thiếu adiponectin với bệnh động mạch vành ở nam giới

Arteriosclerosis, Thrombosis, and Vascular Biology - Tập 23 Số 1 - Trang 85-89 - 2003
Masahiro Kumada1, Shinji Kihara2,3,1,4, Satoru Sumitsuji2,3,1,4, Toshiharu Kawamoto2,3,1,4, Satoru Matsumoto2,3,1,4, Noriyuki Ouchi2,3,1,4, Yukio Arita2,3,1,4, Yoshihisa Okamoto2,3,1,4, Iichiro Shimomura2,3,1,4, Hisatoyo Hiraoka2,3,1,4, Tadashi Nakamura2,3,1,4, Tohru Funahashi2,3,1,4, Yūji Matsuzawa2,3,1,4
1From the Department of Internal Medicine and Molecular Science (M.K., S.K., N.O., Y.A., Y.O., I.S., H.H., T.N., T.F., Y.M.), Graduate School of Medicine, Osaka University; the Department of Cardiology (S.S.), Rinku General Medical Center; the Department of Cardiology (T.K.), National Hospital Kure Medical Center; and the Department of Cardiology (S.M.), Toyonaka Municipal Hospital, Osaka, Japan.
2Department of Internal Medicine and Molecular Science (M.
3Department of Internal Medicine and Molecular Science, Graduate School of Medicine, Osaka University, 2-2, Yamada-oka, Suita, Osaka, 565-0871, Japan
4Osaka CAD Study Group

Tóm tắt

Bối cảnh— Adiponectin là một protein huyết tương được sinh ra từ tế bào mỡ và tích tụ ở động mạch bị tổn thương, có tính chất chống xơ vữa động mạch tiềm ẩn. Nghiên cứu này được thực hiện nhằm xác định xem liệu mức adiponectin huyết tương giảm thấp (hạ adiponectin) có thể liên quan độc lập với tỷ lệ mắc bệnh động mạch vành (CAD) hay không.

Phương pháp và Kết quả— 225 bệnh nhân nam liên tiếp đã được thu nhận từ những bệnh nhân nội trú đã thực hiện chụp động mạch vành. Nhóm người hiến máu tự nguyện (n=225) khớp với độ tuổi được dùng làm đối chứng. Mức adiponectin huyết tương ở những bệnh nhân CAD thấp hơn đáng kể so với những người ở nhóm đối chứng. Phân tích hồi quy logistic đa biến bao gồm mức adiponectin huyết tương, tiểu đường, rối loạn lipid máu, huyết áp cao, thói quen hút thuốc, và chỉ số khối cơ thể đã chỉ ra rằng hạ adiponectin có mối liên quan đáng kể và độc lập với CAD ( P <0.0088). Toàn bộ dân số nghiên cứu được phân loại thành các tứ phân dựa trên phân bố của mức adiponectin huyết tương. Các điểm cắt tứ phân là 4.0, 5.5 và 7.0 μg/mL. Tỷ lệ odds đã được điều chỉnh đa biến cho CAD ở tứ phân đầu tiên, thứ hai và thứ ba lần lượt là 2.051 (khoảng tin cậy [CI] 95%, 1.288 đến 4.951), 1.221 (khoảng tin cậy 95%, 0.684 đến 2.186), và 0.749 (khoảng tin cậy 95%, 0.392 đến 1.418).

Kết luận— Bệnh nhân nam có tình trạng hạ adiponectin (<4.0 μg/mL) có tỷ lệ mắc CAD gia tăng gấp 2 lần, độc lập với các yếu tố nguy cơ CAD đã được biết đến.

Từ khóa


Tài liệu tham khảo

10.1002/j.1550-8528.1995.tb00481.x

10.1097/00041433-199708000-00002

10.1016/0021-9150(94)90025-6

1993, J Biol Chem, 268, 6823, 10.1016/S0021-9258(18)53107-0

10.1038/372425a0

10.1126/science.7678183

10.1038/nm0796-800

10.1006/bbrc.1996.0587

10.1161/circ.100.25.2473

10.1161/circ.102.11.1296

10.1161/circ.103.8.1057

10.1055/s-2007-978586

10.1161/01.cir.0000018622.84402.ff

10.1006/bbrc.1999.0255

10.1210/jcem.86.8.7741

10.1161/atvb.20.6.1595

10.2337/diabetes.50.5.1126

10.2337/diabetes.50.9.2094

2002, J Am Soc Nephrol, 13, 134, 10.1681/ASN.V131134

10.2337/diacare.20.7.1183

10.2337/diabetes.51.9.2734

10.1038/90984

10.1210/jcem.86.5.7463

10.1038/nm724