Nội dung được dịch bởi AI, chỉ mang tính chất tham khảo
Hoạt động kháng khuẩn, độc tế bào và ức chế α-glucosidase của chiết xuất ethanol và các hợp chất hóa học được tách ra từ Propolis của Homotrigona apicalis—Nghiên cứu in vitro và mô phỏng phân tử
Tóm tắt
Nghiên cứu hóa học về propolis của Homotrigona apicalis được thu thập ở tỉnh Bình Định, Việt Nam, đã dẫn đến việc tách khỏi chín hợp chất, bao gồm bốn sesquiterpen: spathulenol (1), 1αH,5βH-aromandendrane-4β,10α-diol (2), 1β,6α-dihydroxy-4(15)-eudesmene (3) và 1βH,5βH-aromandendrane-4α,10β-diol (4); ba triterpen: axit oleanolic acetyl (5), axit 3α-hydroxytirucalla-8,24-dien-21-oic (6) và axit ursolic (7); và hai xanthone: cochinchinone A (8) và α-mangostin (9). Các sesquiterpen 1–4 và triterpen 6 được tách ra lần đầu tiên từ propolis của ong không đốt. Các loài thực vật trong chi Cratoxylum và Aglaia được gợi ý là nguồn nhựa của mẫu propolis. Trong đánh giá hoạt động kháng khuẩn, chiết xuất EtOH chỉ cho thấy hoạt động trung bình trên S. aureus, trong khi các hợp chất được tách ra 7–9 cho thấy hoạt tính kháng khuẩn tốt, với giá trị IC50 từ 0,56 đến 17,33 µg/mL. Chiết xuất EtOH thể hiện tính chọn lọc độc tế bào đối với dòng tế bào ung thư A-549, với giá trị IC50 là 22,82 ± 0,86 µg/mL, và các xanthone 8 và 9 cho thấy hoạt động tốt đối với các dòng tế bào ung thư KB, HepG-2 và A-549, với giá trị IC50 dao động từ 7,55 ± 0,25 µg/mL đến 29,27 ± 2,07 µg/mL. Các tác động độc tế bào của xanthone 8 và 9 được xác định bằng việc ức chế các con đường EGFR và HER2 thông qua nghiên cứu mô phỏng phân tử. Các hợp chất 8 và 9 thể hiện độ bám dính mạnh với EFGR và HER2, với các giá trị từ −9,3 đến −9,9 kcal/mol. Các hợp chất 5, 8 và 9 cho thấy hoạt động ức chế α-glucosidase tiềm năng, điều này còn được xác nhận thêm bằng các nghiên cứu tính toán. Năng lượng liên kết của các hợp chất 5, 8 và 9 thấp hơn so với arcabose.