Phân tích các yếu tố liên quan đến biến chứng lớn sau phẫu thuật cắt amidan và nạo VA ở 4776 bệnh nhân: So sánh ba kỹ thuật cắt amidan
Tóm tắt
So sánh tỷ lệ các biến chứng lớn (chảy máu sau phẫu thuật cần quay lại phòng mổ hoặc cầm máu tại khoa cấp cứu và mất nước cần truyền dịch tĩnh mạch hoặc nhập viện lại) trong một nhóm lớn trẻ em thực hiện phẫu thuật cắt amidan và nạo VA bằng ba kỹ thuật khác nhau.
Nghiên cứu chuỗi ca với việc xem xét hồ sơ, nghiên cứu kiểm soát trường hợp.
Bệnh viện nhi khu vực.
Đối tượng gồm các bệnh nhân từ 1 đến 18 tuổi thực hiện nạo VA, cắt amidan, hoặc cắt amidan và nạo VA bằng microdebrider, coblator hoặc Bovie trong vòng 36 tháng. Các biến chứng lớn được xác định đã được so sánh với hai trường hợp đối chứng phù hợp để cố gắng xác định các bệnh nhân có nguy cơ xảy ra biến chứng lớn sau phẫu thuật.
Tỷ lệ biến chứng chung là 80 trên 4776 (1,7 ± 0,4% [phần trăm ± khoảng tin cậy 95%]). Trong số 3362 bệnh nhân nhận cắt amidan hoặc cắt amidan đơn thuần, 80 người đã gặp biến chứng (2,3 ± 0,5%). Tỷ lệ biến chứng lớn khác nhau giữa các kỹ thuật cắt amidan: 34 trên 1235 (2,8 ± 0,9%) kết hợp coblator; 40 trên 1289 (3,1 ± 0,9%) dùng điện; sáu trên 824 (0,7 ± 0,7%) dùng microdebrider (