Mô Hình Thực Nghiệm Xác Định Kích Thước Kho Lưu Trữ Máu Cuống Rốn Phù Hợp Tại Brazil Sử Dụng Chương Trình Máy Tính Đối Chiếu HLA

Blood - Tập 116 - Trang 3834 - 2010
Andreza Ribiero1, Margareth Afonso Torres2, Marcos Alberto Piani2, Maria Elisa Moraes3, Jose Mauro Kutner1, Sandra Serson Rohr1
1Blood Bank, Hospital Albert Einstein, Sao Paulo, Brazil
2Clinical Pathology, Hospital Albert Einstein, Sao Paulo, Brazil
3Clinical Pathology, LIG - laboratório de Imunogenetica, Sao Paulo, Brazil

Tóm tắt

Tóm tắt Máu cuống rốn là một lựa chọn thay thế cho những bệnh nhân cần ghép tế bào huyết học nhưng không thể dựa vào các người hiến tặng có HLA giống hệt nhau. Liên minh máu cuống rốn công cộng của Brazil đã hoạt động từ năm 2002 với sáu trung tâm cho đến nay, bao gồm Ngân hàng Máu Cuống Rốn tại Bệnh viện Albert Einstein, São Paulo, Brazil. Tuy nhiên, hiện tại không có nghiên cứu nào liên quan đến kích thước tối ưu của kho lưu trữ máu cuống rốn tại nước ta. Rất khó để xác định kích thước kho lưu trữ do các cấp độ tương thích HLA khác nhau và mức độ tế bào tối thiểu cần thiết cho ghép. Giới thiệu: Để ước lượng số lượng đơn vị máu cuống rốn tối thiểu cần lưu trữ tại Brazil sao cho có thể phù hợp đầy đủ với 4/6, 5/6 và 6/6 HLA-A, -B, và -DRB1 cho một tỷ lệ đáng kể bệnh nhân cần ghép tế bào gốc. Phương pháp: Một chương trình máy tính được phát triển để đối chiếu sự tương thích HLA giữa một nhóm 904 bệnh nhân tìm kiếm ghép tế bào gốc không liên quan và một cơ sở dữ liệu gồm hơn 10,500 Người Hiến Tặng Không Liên Quan Tình Nguyện (VUD) cùng 1,018 đơn vị máu cuống rốn được lưu trữ tại Ngân hàng Máu Cuống Rốn Bệnh viện Albert Einstein. Tiếp theo, số lượng đơn vị cần thiết cho các cấp độ tương thích khác nhau được ước tính. Cơ sở dữ liệu này bao gồm HLA-A, -B và -DRB1 được phân loại với độ phân giải thấp cho lớp I và độ phân giải cao cho lớp II. Thứ tự của các đơn vị riêng lẻ trong CƠ SỞ DỮ LIỆU được ngẫu nhiên hóa nhằm tránh bất kỳ thiên lệch nào trong các phân tích do sự cụm dữ liệu. Cả hai nhóm hiến tặng và bệnh nhân đều có nguồn gốc dân tộc đa dạng và sống trong bang São Paulo, Brazil. Chương trình đã so sánh kiểu hình mỗi bệnh nhân với các kiểu hình của các nhóm con trong cơ sở dữ liệu với kích thước ngày càng tăng (từ 500 đến 11,500 theo khoảng 1,000). Kết quả được phân tích theo: a) Khả năng tìm ra các đơn vị tương thích 4/6, 5/6, 6/6 bằng cách sử dụng ít nhất một đơn vị máu cuống rốn cho mỗi bệnh nhân; b) Khả năng tìm ra ít nhất bốn đơn vị máu tương thích (tức là, đa số) cho mỗi bệnh nhân.

Từ khóa