Ghép tủy allogeneic trong giai đoạn remis đầu tiên cải thiện kết quả ở bệnh nhân bạch cầu myeloid cấp tính thứ phát

Blood - Tập 124 - Trang 281 - 2014
Christer Nilsson1, Erik Hulegårdh2, Vladimir Lazarevic3, Hege Garelius4, Asa Rangert Derolf5, Lars Möllgård4, Lovisa Wennström4, Bertil Uggla6, Petar Antunovic7, Kristina Myhr-Eriksson8, Anders Wahlin9, Martin Höglund10, Gunnar Juliusson11, Dick Stockelberg2, Lehmann Soren1
1arolinska Institute, Stockholm, Sweden
2Sahlgrenska University Hospital, Gothenburg, Sweden
3Skåne University Hospital, Lund University, Lund, Sweden
4Sahlgrenska University Hospital, Göteborg, Sweden
5Karolinska University Hospital and Karolinska Institutet, Stockholm, Sweden
6University Hospital Örebro, Örebro, Sweden
7University Hospital Linkoping, Linkoping, Sweden
8Sunderby Hospital, Luleå, Sweden
9Norrland University Hospital, Umea, Sweden
10Department of Hematology, Uppsala University Hospital, Uppsala, Sweden;
11Hematology/Transplantation, Stem Cell Center, Lund University and Department of Hematology and Coagulaion, Skåne University Hospital, Lund, Sweden

Tóm tắt

Tất cả các ca ghép tế bào gốc (SCT) từ người hiến tặng khác đều được sử dụng rộng rãi như một biện pháp điều trị sau remis cho những bệnh nhân trẻ tuổi có nguy cơ bạch cầu myeloid cấp tính (AML) kém hoặc trung bình. Quyết định về việc ghép chủ yếu dựa trên nhóm nguy cơ cytogenetic và phân tử, tuổi tác, bệnh lý đi kèm và khả năng có người hiến tặng phù hợp. AML thứ phát, bao gồm AML liên quan đến liệu pháp (t-AML) và AML sau một rối loạn huyết học trước đó (AHD-AML), chiếm hơn một phần tư số ca AML và là một yếu tố dự đoán kết quả kém. Tuy nhiên, mức độ mà SCT cải thiện kết quả của nhóm bệnh nhân này vẫn chưa được nghiên cứu kỹ lưỡng. Trong nghiên cứu này, chúng tôi nhằm điều tra vai trò của SCT đối với sự sống sót của bệnh nhân AML thứ phát trong cơ sở dữ liệu đăng ký Bạch cầu cấp tính người lớn Thụy Điển. Tổng cộng có 5881 bệnh nhân bị AML được chẩn đoán trong giai đoạn từ 1997 đến 2013 được đưa vào nghiên cứu. Trong số này, 4233 (72%) là AML de novo, 1098 (19%) là AHD-AML và 550 (9%) là t-AML. Tuổi trung bình tại thời điểm chẩn đoán là 70 ở AML de novo, 73 ở AHD-AML và 70 ở t-AML. Tỷ lệ giới tính là đồng đều ở AML de novo (51% nam). Ở AHD-AML, có sự vượt trội của nam giới (57%) trong khi ở t-AML, tỷ lệ nữ là 56%. Tỷ lệ bệnh nhân đã thực hiện SCT trong lần remis đầu tiên (CR1) là 10% ở AML de novo, 5% ở AHD-AML và 8% ở t-AML. Ở những bệnh nhân từ 65 tuổi trở xuống, tỷ lệ thực hiện SCT trong CR1 lần lượt là 24%, 21% và 20%. Tuổi trung bình của các bệnh nhân thực hiện SCT là 48 (phạm vi 17 – 71) ở AML de novo, 57 (27 – 76) ở AHD-AML và 49.5 (18 – 68) ở t-AML. Ở AML de novo, phân bố các nhóm nguy cơ di truyền trong số bệnh nhân SCT là 3% nguy cơ thấp, 55% nguy cơ trung bình và 42% nguy cơ cao. Tương ứng với AHD-AML là 0%, 34% và 66% và với t-AML là 5%, 45% và 50% (p < 0.001 cho so với AHD-AML, p = 0.299 cho so với t-AML, p = 0.124 cho AHD-AML so với t-AML; kiểm định chính xác của Fisher).

Từ khóa

#Bạch cầu myeloid cấp tính #ghép tế bào gốc #điều trị hậu remis #di truyền nguy cơ #tỷ lệ sống sót.