Martin J. van den Bent1, Alba A. Brandes2,1, Martin J.B. Taphoorn1, Johan M. Kros1, Mathilde C.M. Kouwenhoven1, Jean‐Yves Delattre3,1, Hans J.J.A. Bernsen1, Marc Frénay4,1, Cees Tijssen1, Wolfgang Grisold1, László Sípos5,1, Roelien H. Enting1, Pim J. French1, Winand N.M. Dinjens1, Charles J. Vecht1, Anouk Allgeier6,1, Denis Lacombe6,1, Thierry Gorlia6,1, Khê Hoang‐Xuan3,1
1Martin J. van den Bent, Johan M. Kros, Mathilde C.M. Kouwenhoven, Roelien H. Enting, Pim J. French, and Winand N.M. Dinjens, Erasmus MC–Daniel den Hoed Cancer Center, Rotterdam; Martin J.B. Taphoorn and Charles J. Vecht, Medical Center Haaglanden, The Hague; Martin J.B. Taphoorn, Vrije Universiteit Medisch Centrum, Amsterdam; Hans J.J.A. Bernsen, Canisius Wilhelmina Ziekenhuis, Nijmegen; Cees C. Tijssen, St Elisabeth Hospital, Tilburg; Roelien H. Enting, University Medical Center Groningen, Groningen,...
2Azienda Unita Sanitaria Locale Bologna
3Grp Hosp Pitie Salpetriere
4Ctr Antoine Lacassagne
5Inst Neurosurg
6European Org Res & Treatment Canc Headquarters
Tóm tắt
Mục đích Các khối u oligodendroglioma phân biệt cao nhạy với hóa trị liệu. Chúng tôi trình bày kết quả theo dõi dài hạn của một nghiên cứu pha III ngẫu nhiên về việc thêm sáu chu kỳ hóa trị liệu với procarbazine, lomustine và vincristine (PCV) vào xạ trị (RT). Bệnh nhân và Phương pháp Các bệnh nhân trưởng thành được chẩn đoán mới với các khối u oligodendroglioma phân biệt cao được chỉ định ngẫu nhiên vào xạ trị 59.4 Gy hoặc cùng xạ trị sau đó là sáu chu kỳ PCV hỗ trợ. Một phân tích thăm dò về mối quan hệ giữa trạng thái 1p/19q và sự sống sót cũng là một phần của nghiên cứu. Tiến hành phân tích ngược dòng trạng thái methyl hóa của gen truyền methyl-guanine methyl transferase và trạng thái đột biến của gen isocitrate dehydrogenase (IDH). Các chỉ tiêu chính là tổng thời gian sống còn (OS) và thời gian không tiến triển bệnh dựa trên phân tích ý định điều trị. Kết quả Tổng cộng 368 bệnh nhân được ghi danh. Với khoảng thời gian theo dõi trung bình là 140 tháng, OS ở nhóm RT/PCV dài hơn đáng kể (42.3 so với 30.6 tháng ở nhóm RT, tỉ lệ rủi ro [HR], 0.75; 95% CI, 0.60 đến 0.95). Trong số 80 bệnh nhân có sự cắt ghép 1p/19q, OS tăng lên, với xu hướng hưởng lợi nhiều hơn từ PCV hỗ trợ (OS chưa đạt ở nhóm RT/PCV so với 112 tháng ở nhóm RT; HR, 0.56; 95% CI, 0.31 đến 1.03). Trạng thái đột biến IDH cũng có ý nghĩa tiên lượng. Kết luận Việc thêm sáu chu kỳ PCV sau xạ trị 59.4 Gy tăng cả OS và thời gian không tiến triển bệnh trong các khối u oligodendroglioma phân biệt cao. Các khối u có sự cắt ghép 1p/19q hưởng lợi nhiều hơn từ PCV hỗ trợ so với các khối u không có sự cắt ghép 1p/19q.