Hẹp Tĩnh Mạch Phổi Thuộc Về Nguyên Nhân Sau Khi Phép Thông Tim Bằng Tần Số Radio Trong Điều Trị Rung Nhĩ Kịch Phát

Journal of Cardiovascular Electrophysiology - Tập 12 Số 8 - Trang 887-892 - 2001
WEN‐CHUNG YU1, TSUI‐LIEH HSU2, Ching‐Tai Tai2, Chin‐Feng Tsai2, MING‐HSIUNG HSIEH2, Wei‐Shiang Lin2, Yung‐Kuo Lin2, HSUAN‐MING TSAO2, Yu‐An Ding2, Mau‐Song Chang2, SHIH‐ANN CHEN2
1Department of Medicine, National Yang-Ming University, and Taipei Veterans General Hospital, Taiwan, Republic of China.
2Division of Cardiology, Department of Medicine, National Yang-Ming University, and Taipei Veterans General Hospital, Taiwan, Republic of China

Tóm tắt

Hẹp tĩnh mạch phổi sau khi làm thủ thuật ablation rung nhĩ. Giới thiệu: Việc loại bỏ ổ khởi phát bên trong tĩnh mạch phổi (PV) bằng cách sử dụng điều trị thông tim bằng sóng tần số radio (RF) là một phương pháp điều trị mới cho rung nhĩ kháng thuốc. Tuy nhiên, thông tin về độ an toàn lâu dài của việc ablation bằng RF trong tĩnh mạch phổi vẫn còn hạn chế.

Phương pháp và kết quả: Trong 102 bệnh nhân có rung nhĩ kháng thuốc và ít nhất một ổ khởi phát từ tĩnh mạch phổi, đã tiến hành siêu âm thực quản liên tiếp để theo dõi hiệu ứng của việc ablation RF trên tĩnh mạch phổi. Có 66 ổ khởi phát ở tĩnh mạch phổi phía trên bên phải và 65 ổ ở tĩnh mạch phổi phía trên bên trái. Trong vòng 3 ngày sau khi ablation, 26 trong số các tĩnh mạch phổi phía trên bên phải đã được ablation (39%) có vận tốc dòng Doppler tăng cao nhất (trung bình 130 ± 28 cm/sec, khoảng 106 đến 220), và 15 trong số các tĩnh mạch phổi phía trên bên trái đã được ablation (23%) có vận tốc dòng Doppler tăng cao nhất (trung bình 140 ± 39 cm/sec, khoảng 105 đến 219). Bảy bệnh nhân có vận tốc dòng Doppler tăng cao nhất ở cả hai tĩnh mạch phổi phía trên. Không có yếu tố nào (bao gồm tuổi, giới tính, vị trí ablation, số lượng xung RF, thời gian xung và nhiệt độ) có thể dự đoán hẹp tĩnh mạch phổi sau khi ablation RF. Ba bệnh nhân có hẹp cả hai tĩnh mạch phổi phía trên đã trải qua khó thở nhẹ khi gắng sức, nhưng chỉ có một bệnh nhân có tăng nhẹ áp lực phổi. Không có sự thay đổi đáng kể nào về vận tốc dòng đỉnh và vận tốc dòng trung bình cũng như đường kính tĩnh mạch phổi trong các nghiên cứu theo dõi liên tiếp lên đến 16 (209 ± 94 ngày) tháng.

Kết luận: Hẹp tĩnh mạch phổi tại chỗ thường được quan sát thấy sau khi thực hiện thủ thuật thông tim bằng sóng RF, nhưng thường không có ý nghĩa lâm sàng. Tuy nhiên, việc ablation ở nhiều tĩnh mạch phổi có thể gây tăng huyết áp phổi và nên được xem xét là một yếu tố hạn chế trong quy trình này.

Từ khóa


Tài liệu tham khảo