Dipenkumar Modi1, Malini Surapaneni2, Seongho Kim1, Lois Ayash3, Asif Alavi3, Andrew Kin3, Voravit Ratanatharathorn3, Joseph P. Uberti3, Abhinav Deol3
1Department of Oncology, Karmanos Cancer Institute Wayne State University, Detroit, MI
2Department of Internal Medicine, Detroit Medical Center/Wayne State University, Detroit, MI
3Department of Oncology, Blood and Marrow Stem Cell Transplant Program, Karmanos Cancer Institute/Wayne State University, Detroit, MI
Tóm tắt
Giới thiệu: Thymoglobulin từ thỏ, một tác nhân gây giảm tế bào T trong cơ thể, được sử dụng rộng rãi như một phần của chế độ phòng ngừa GVHD. Liều lượng thymoglobulin hiện tại thường dựa trên trọng lượng và không xem xét các yếu tố liên quan đến bệnh nhân. Điều này dẫn đến việc tiếp xúc với thymoglobulin rất khác nhau. Mặc dù các liều cao hơn (>7mg/kg) của thymoglobulin đã được chứng minh là làm giảm nguy cơ GVHD, nhưng điều này đi kèm với tỷ lệ nhiễm trùng cơ hội và tái phát bệnh cao hơn. Ngược lại, liều thấp hơn (2.5mg/kg) của thymoglobulin lại có liên quan đến việc tăng nguy cơ GVHD. Do đó, liều lượng tối ưu của thymoglobulin vẫn chưa được xác định. Chúng tôi giả thuyết rằng số lượng ALC trong máu ngoại vi của người nhận vào ngày đầu tiên tiêm thymoglobulin sẽ tương tác với liều lượng thymoglobulin được truyền và dự đoán các kết quả sau cấy ghép. Chúng tôi dự định xác định mối liên hệ giữa liều lượng thymoglobulin với ALC vào ngày đầu tiên tiêm thymoglobulin.
Phương pháp: Chúng tôi đã đánh giá hồi cứu các kết quả lâm sàng của các bệnh nhân trưởng thành (pts) đã trải qua cấy ghép tế bào gốc huyết học từ người cho không liên quan đã được ghép nối và nhận tacrolimus, mycophenolate (cellcept) và thymoglobulin như một biện pháp phòng ngừa GVHD. Thymoglobulin được tiêm ở tổng liều 4.5mg/kg theo cách chia nhỏ (0.5mg/kg vào ngày -3, 1.5mg/kg vào ngày -2 và 2.5mg/kg vào ngày -1). Các mục tiêu là xác định tỷ lệ GVHD, sống sót tổng thể (OS), sống sót không tái phát (RFS), tỷ lệ tái phát và tỷ lệ tử vong không tái phát (NRM) sau AHSCT bằng phương pháp hồi quy nguy cơ tỷ lệ Cox và mô hình rủi ro đối kháng.
Kết quả: Giữa tháng 1 năm 2005 và tháng 12 năm 2017, 217 bệnh nhân đã trải qua AHSCT. Các chỉ định phổ biến nhất cho AHSCT là AML (n=95, 44%), MDS (n=57, 26%), lymphoma không Hodgkin (n=23, 11%), và ALL (n=22, 10%). Tuổi trung bình của các bệnh nhân là 60 tuổi (phạm vi, 18-79). Tất cả bệnh nhân nhận tế bào gốc từ máu ngoại vi. Chín mươi tám bệnh nhân (45%) đã nhận chế độ điều trị cường độ tối đa và 119 bệnh nhân (55%) nhận chế độ điều trị cường độ giảm. ALC trung vị vào ngày đầu tiên tiêm thymoglobulin là 200 K/mm³.
Tỷ lệ tích lũy gặp phải GVHD cấp độ III-IV trong 6 tháng đầu là 14.8% và tỷ lệ tích lũy 2 năm đối với GVHD mãn tính là 35.4%. Với thời gian theo dõi trung vị là 3.82 năm cho các bệnh nhân sống sót, tỷ lệ RFS, OS, tái phát và NRM trong 2 năm lần lượt là 50%, 57.1%, 20.1%, và 30.2%. Tỷ lệ tái phát CMV và EBV lần lượt là 37% và 11%. Bốn bệnh nhân đã phát triển bệnh CMV. Theo ngưỡng ALC tối thiểu của chúng tôi là 100 K/mm³, các bệnh nhân được chia thành hai nhóm (ALC ≤ 100 so với ALC > 100). Phân tích đa biến cho thấy ALC > 100 liên quan đến OS tốt hơn đáng kể (HR 0.51, 95% CI 0.33-0.79, p=0.002), RFS (HR 0.49, 95% CI 0.33-0.74, p=0.001) và NRM thấp hơn (SHR 0.57, 95% CI 0.34-0.97, p=0.038) và tỷ lệ tái phát thấp hơn một cách biên (SHR 0.57, 95% CI 0.31-1.05, p=0.070). Ngoài ra, số lượng tế bào nhân nuôi cấy cao hơn có liên quan đến tỷ lệ NRM cao hơn (SHR 1.70, 95% CI 1.02-2.83, p=0.041). Không thấy ảnh hưởng của chỉ số nguy cơ bệnh, KPS, chế độ điều trị, tế bào CD34 được truyền lên NRM, tỷ lệ tái phát, RFS hoặc OS.
Kết luận: Nghiên cứu của chúng tôi chỉ ra rằng ALC ≤ 100 có liên quan đến các kết quả xấu sau cấy ghép khi sử dụng liều thymoglobulin 4.5mg/kg để làm giảm tế bào T trong cơ thể. Phát hiện này có thể cho thấy rằng ở những bệnh nhân có ALC thấp hơn, liều thymoglobulin có thể cần phải điều chỉnh để tối ưu hóa hiệu quả của nó và tránh các độc tính. Trong tương lai, cần lên kế hoạch cho các nghiên cứu triển vọng, đánh giá việc giảm liều thymoglobulin ở bệnh nhân có ALC thấp để xác nhận những kết quả này.