Nội dung được dịch bởi AI, chỉ mang tính chất tham khảo
Trải nghiệm tại hai trung tâm với việc sử dụng độc quyền phẫu thuật nội soi xuyên phúc mạc để điều trị bệnh thận lành tính ở trẻ em
Tóm tắt
Nghiên cứu này nhằm đánh giá trải nghiệm tại hai trung tâm về phẫu thuật nội soi xuyên phúc mạc cắt thận ở trẻ em, tập trung vào các thông số kết quả như thời gian phẫu thuật, biến chứng, yêu cầu giảm đau và thời gian nằm viện sau phẫu thuật. Nghiên cứu ambispective được thực hiện trong khoảng thời gian 4 năm, từ tháng 5 năm 2001 đến tháng 5 năm 2005, tại hai trung tâm phẫu thuật nhi khoa cấp ba. Dữ liệu được ghi nhận một cách triển vọng từ hệ thống kiểm toán y tế mở rộng (EMAS) và cơ sở dữ liệu Microsoft Excel. Thông tin về nhân khẩu học của bệnh nhân, thời gian phẫu thuật, biến chứng, yêu cầu giảm đau và thời gian nằm viện được thu thập và phân tích. Tổng cộng có 30 bệnh nhân liên tiếp với độ tuổi trung bình là 4,43 tuổi (khoảng từ 3 tháng đến 15 tuổi) đã thực hiện phẫu thuật cắt thận nội soi. Tất cả bệnh nhân đều đã trải qua cắt thận một bên/cắt thận-khúc nối với các nguyên nhân như thận đa bất sản (n = 12), bệnh thận ứ nước (n = 13), tắc nghẽn khúc nối bàng quang-niệu quản (n = 4), hoặc bệnh lý cystic không xác định nguyên nhân (n = 1). Thời gian phẫu thuật trung bình là 93 ± 30 phút. Các thiết bị cầm máu chính được sử dụng bao gồm dao siêu âm Harmonic (20 ca), kẹp liga (5 ca), và diathermy móc cùng kéo nội soi (4 ca). Không có trường hợp chuyển đổi, nhưng đã gặp biến chứng nội soi như chảy máu (n = 2), vị trí khó khăn (n = 1), lấy mẫu khó (n = 1), và yêu cầu sử dụng thiết bị kéo gan (n = 2). Thêm năm bệnh nhân gặp vấn đề trong giai đoạn hậu phẫu ngay lập tức, trong đó hai người đã gặp khó khăn lâu dài với nhiễm trùng đường tiểu tái phát do còn lại mẩu niệu quản, cần phẫu thuật. Gần một phần ba bệnh nhân cần sử dụng morphine để giảm đau trong giai đoạn hậu phẫu ngay lập tức, với tỷ lệ này giảm xuống còn 20% vào ngày thứ nhất. Thời gian nằm viện trung bình sau phẫu thuật là 1 ngày (khoảng từ 0 đến 16 ngày). Tại thời điểm viết bài này, tất cả bệnh nhân đều đang được theo dõi với thời gian theo dõi trung bình là 2,88 năm, và không có bệnh nhân nào gặp phải biến chứng do dính trong ổ bụng. Phẫu thuật cắt thận nổi soi xuyên phúc mạc là khả thi về mặt kỹ thuật trong hầu hết các trường hợp bệnh thận lành tính. Các biến chứng trong phẫu thuật là tối thiểu, và sự phục hồi của đa số bệnh nhân là rất tốt. Hai phần ba bệnh nhân được xuất viện trong vòng 24 giờ. Trong nghiên cứu này, thuốc giảm đau dạng thuốc phiện được kê đơn cho khoảng một phần ba tổng số ca trong thời gian giới hạn. Tuy nhiên, vấn đề có thể xảy ra khi các niệu quản bị trào ngược không được cắt bỏ hoàn toàn. Tuy nhiên, phương pháp tiếp cận xuyên phúc mạc không cản trở việc cắt bỏ hoàn toàn vì việc tiếp cận khung chậu là đầy đủ. Tại kỳ đánh giá giữa kỳ, không gặp khó khăn do dính, khẳng định rằng phương pháp này là một sự thay thế khả thi cho các phương pháp phẫu thuật nội soi khác trong cắt thận.
Từ khóa
Tài liệu tham khảo
Allaf ME, Bhayani SB, Kavoussi LR (2004) Taking the side of transperitoneal access for surgery in upper urinary tract. Curr Urol Rep 5: 87–92
Borzi PA (2001) A comparison of the lateral and posterior retroperitoneoscopic approach for complete and partial nephroureterectomy in children. BJU Int 87: 517–520
Borzi PA, Yeung CK (2004) Selective approach for transperitoneal and extraperitoneal endoscopic nephrectomy in children. J Urol 171: 814–816
Clayman RV, Mc Dougall EM, Kerbl K, Anderson K, Kavoussi LR (1994) Laparoscopic nephrectomy: transperitoneal versus retroperitoneal (abstract 459). J Urol 151: 342A
Desai MM, Strzempkowski B, Matin SF, Steinberg AP, Ng C, Meraney AM, Kaouk JH, Gill 1S (2005) Prospective randomized comparison of transperitoneal versus retroperitoneal laparoscopic radical nephrectomy. J Urol 173: 38–41
El Goneimi A, Valla JS, Steyaert H Grainy AL (1998) Renal surgery via a retroperitoneal approach in children. J Urol 160: 1138–1141
Gill IS, Clayman RV, Albala DM, Aso Y, Chiu AW, Das S, Donovan JF, Fuchs GJ, Gaur DD, Go H, Gomella LG, Grune MT, Harewood LM, Janetschek G, Knapp PM, McDougall EM, Nakada SY, Preminger GM, Puppo P, Rassweiler JJ, Royce PL, Thomas R, Urban DA, Winfield HN (1998) Retroperitoneal and pelvic extraperitoneal laparoscopy: an international perspective. Urology 52: 566–571
Hemal AK, Wadhwa SN, Kumar M, Gupta NP (1999) Transperitoneal and retroperitoneal laparoscopic nephrectomy for giant hydronephrosis. J Urol 162: 35–39
Hoznek A, Salomon L, Gettman M, Stolzenburg J, Abbou C (2004) Justification of extraperitoneal laparoscopic access for surgery of the upper urinary tract. Curr Urol Rep 5: 93–99
Kapoor R, Singh KJ, Suri A, Dubey D, Mandhani A, Srivastava A, Kumar A (2006) Hem-o-lok clips for vascular control during laparoscopic ablative nephrectomy: a single-center experience. J Endourol 20: 202–204
Kumar M, Kumar R, Hemal AK, Gupta NP (2001) Complications of retroperitoneoscopic surgery at one centre. BJU Int 87: 607–612
Martin SF, Gill SI (2002) Laparoscopic radical nephrectomy: retroperitoneal versus transperitoneal approach. Curr Urol Rep 3: 164–171
McDougall EM, Clayman RV (1996) Laparoscopic nephrectomy for benign disease: comparison of the transperitoneal and retroperitoneal approaches. J Endourol 10: 45
Ng CS, Abreu SC, Abou El-Fettouh HI, Kaouk JH, Desai MM, Goldfarb DA, Gill IS (2004) Right retroperitoneal versus left transperitoneal laparoscopic live donor nephrectomy. Urology 63: 857–861
Ng CS, Gill IS, Ramani AP,Steinberg AP, Spaliviero M, Abreu SC, Kaouk JH, Desai MM (2005) Transperitoneal versus retroperitoneal laparoscopic partial nephrectomy: patient selection and perioperative outcomes. J Urol 174: 846–849
Ono Y, Katoh N, Kinukawa T, Matsuura O, Oshima S (1996) Laparoscopic nephrectomy via the retroperitoneoscopic approach. J Urol 156: 1101
Pattaras JG, Moore RG, Landman J, Clayman RV, Janetschek G, McDougall EM, Docimo SG, Parra RO, Kavoussi LR (2002) Incidence of postoperative adhesion formation after transperitoneal genitourinary laparoscopic surgery. Urology 59: 37–41
Rassweiler J, Frede T, Henkel TO, Stock C, Alken P (1998) Nephrectomy: A comparative study between the transperitoneal and retroperitoneal laparoscopic versus the open approach. Eur Urol 33: 489–496
