Chuyển phôi trữ là gì? Các công bố khoa học về Chuyển phôi trữ

Chuyển phôi trữ là một phương pháp quan trọng trong công nghệ hỗ trợ sinh sản, đặc biệt trong IVF. Quy trình này bao gồm đông lạnh phôi bằng vitrification, bảo quản ở -196°C, sau đó rã đông và chuyển phôi vào tử cung khi điều kiện thích hợp. Lợi ích của phương pháp là cơ hội mang thai cao hơn và lên kế hoạch gia đình linh hoạt. Tuy nhiên, thách thức gồm khả năng sống sót của phôi sau rã đông và yêu cầu y tế khắt khe. Nó đem lại hy vọng nhưng cần cân nhắc dựa trên tình trạng sức khỏe cá nhân.

Giới thiệu về Chuyển Phôi Trữ

Chuyển phôi trữ là một quy trình quan trọng trong công nghệ hỗ trợ sinh sản, đặc biệt trong các phương pháp như thụ tinh trong ống nghiệm (IVF). Quy trình này liên quan đến việc lấy phôi đã được thụ tinh và đông lạnh từ trước đó để cấy vào tử cung của người mẹ, giúp tăng cơ hội mang thai.

Quy Trình Chuyển Phôi Trữ

1. Đông Lạnh và Bảo Quản Phôi

Phôi được đông lạnh bằng kỹ thuật đông đặc (vitrification), giúp ngăn ngừa sự hình thành các tinh thể băng có thể làm hỏng cấu trúc tế bào. Sau khi đông lạnh, phôi được bảo quản trong các thùng chứa nitơ lỏng ở nhiệt độ -196°C, đảm bảo tính ổn định và an toàn cho việc lưu trữ dài hạn.

2. Rã Đông và Chuẩn Bị Phôi

Khi người mẹ sẵn sàng cho việc chuyển phôi, phôi sẽ được rã đông cẩn thận. Quá trình này yêu cầu sự giám sát chặt chẽ để đảm bảo phôi không bị tổn thương. Sau khi rã đông, các chuyên gia sẽ kiểm tra chất lượng phôi để xác định khả năng sống sót và phát triển của chúng.

3. Chuẩn Bị Tử Cung

Trước khi phôi được chuyển, tử cung của người mẹ cần phải được chuẩn bị kỹ lưỡng. Điều này thường bao gồm việc điều chỉnh nội tiết tố để tạo ra một môi trường lý tưởng cho phôi làm tổ và phát triển. Bác sĩ có thể sử dụng hormone như estrogen và progesterone để chuẩn bị niêm mạc tử cung.

4. Tiến Hành Chuyển Phôi

Quá trình chuyển phôi thường diễn ra tại phòng khám, không cần gây mê và mất ít thời gian. Bác sĩ sẽ sử dụng một ống thông mỏng để đưa phôi qua cổ tử cung vào trong tử cung. Sau khi thực hiện, người mẹ sẽ được khuyến nghị nghỉ ngơi và theo dõi sức khỏe một cách cẩn thận.

Lợi Ích và Thách Thức của Chuyển Phôi Trữ

Lợi Ích

  • Tối ưu hóa cơ hội mang thai: Đối với các cặp vợ chồng không thể thụ thai tự nhiên, chuyển phôi trữ mang lại thêm cơ hội để có con.
  • Tính linh hoạt: Việc đông lạnh phôi cho phép các cặp đôi lên kế hoạch gia đình một cách linh hoạt hơn, lựa chọn thời điểm thích hợp để mang thai.

Thách Thức

  • Khả năng sống sót của phôi sau khi rã đông: Mặc dù kỹ thuật đông lạnh hiện đại đã cải thiện tỷ lệ sống sót, vẫn có khả năng phôi không sống sau khi rã đông.
  • Yêu cầu về điều kiện y tế: Quá trình này đòi hỏi sự theo dõi kỹ lưỡng và có thể không phù hợp với tất cả mọi người.

Kết Luận

Chuyển phôi trữ là một phương pháp hữu ích trong lĩnh vực hỗ trợ sinh sản, mang lại hy vọng cho nhiều cặp vợ chồng mong muốn có con. Tuy nhiên, cũng như các phương pháp y tế khác, việc thực hiện cần được cân nhắc kỹ lưỡng dựa trên tình trạng và yêu cầu sức khỏe cụ thể của từng cá nhân.

Danh sách công bố khoa học về chủ đề "chuyển phôi trữ":

KHẢO SÁT NỒNG ĐỘ PROGESTERONE HUYẾT THANH TRƯỚC CHUYỂN PHÔI VÀ MỐI LIÊN QUAN VỚI MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM LÂM SÀNG Ở CHU KỲ CHUYỂN PHÔI ĐÔNG LẠNH
Mục tiêu: Khảo sát nồng độ progesterone huyết thanh trước chuyển phôi và mối liên quan với một số đặc điểm lâm sàng ở chu kỳ chuyển phôi đông lạnh. Đối tượng và phương pháp: Nghiên cứu quan sát mô tả, tiến cứu trên 126 chu kỳ chuyển phôi đông lạnh giai đoạn phôi nang tại Viện Mô phôi lâm sàng Quân đội, Học viện Quân y, sử dụng liệu pháp thay thế hormone để chuẩn bị nội mạc tử cung và hỗ trợ hoàng thể bằng 800 mg progesterone vi hạt âm đạo/ngày phối hợp 20 mg dydrogesterone đường uống. Định lượng progesterone huyết thanh một ngày trước ngày chuyển phôi. Đánh giá nồng độ progesterone huyết thanh (ng/mL), tuổi, cân nặng, chỉ số khối cơ thể trung bình (BMI) và độ dày niêm mạc tử cung ngày mở cửa sổ làm tổ. Kết quả: Nồng độ progesterone huyết thanh trung bình trước ngày chuyển phôi là 14,25 ± 6,76 ng/mL. Không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về sự tương quan giữa các yếu tố tuổi (r: 0,1189, p = 0,185), cân nặng (r: -0,0208, p = 0,817), BMI (r: -0,0417, p = 0,643) và niêm mạc tử cung (r: -0,0527, p = 0,558) với nồng độ progesterone huyết thanh. Kết luận: Nồng độ progesterone huyết thanh trung bình trước ngày chuyển phôi của các chu kỳ chuyển phôi đông lạnh là 14,25 ± 6,76 ng/mL. Sự ảnh hưởng của các yếu tố tuổi, cân nặng, BMI và niêm mạc tử cung lên nồng độ progesterone không có ý nghĩa thống kê.
#Progesterone #Chuyển phôi đông lạnh #x
Thời điểm tối ưu để chuyển phôi trữ sau trữ phôi toàn bộ
Tạp chí Phụ Sản - Tập 15 Số 1 - Trang 30 - 35 - 2017
Trữ phôi toàn bộ - chuyển phôi trữ đang được thực hiện ngày càng nhiều ở các trung tâm thụ tinh ống nghiệm trên thế giới. Tuy nhiên, thời điểm tối ứu để chuyển phôi trữ sau trữ phôi toàn bộ chưa được nghiên cứu nhiều. Gần đây, Tạp chí Sinh sản người (Human Reproduction) đã đăng tải một loạt các nghiên cứu về vấn đề này. Đây là những bằng chứng y học ban đầu, cung cấp cho các nhà lâm sàng cơ sở để xác định thời điểm tối ưu để chuyển phôi trữ sau trữ phôi toàn bộ nhằm tăng hiệu quả điều trị và sự hài lòng của bệnh nhân.
Tỷ lệ chu kỳ chuyển phôi trữ lạnh có nồng độ progesterone huyết thanh thấp và các yếu tố liên quan tại Bệnh viện Hùng Vương
Tạp chí Phụ Sản - Tập 21 Số 3 - Trang 74-79 - 2023
Mục tiêu: Xác định tỷ lệ chu kỳ chuyển phôi trữ lạnh có nồng độ progesterone huyết thanh thấp (< 10 ng/mL) vào ngày chuyển phôi và khảo sát các yếu tố có liên quan đến nồng độ progesterone huyết thanh thấp. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu cắt ngang mô tả được thực hiện tại Bệnh viện Hùng Vương từ tháng 10/2022 - 02/2023 trên 367 chu kỳ chuyển phôi trữ lạnh được chuẩn bị nội mạc tử cung bằng phác đồ chu kỳ nhân tạo. Kết quả: Tỷ lệ chu kỳ chuyển phôi trữ lạnh có nồng độ progesterone huyết thanh thấp vào ngày chuyển phôi là 71,66%. Phân tích hồi quy logistic đa biến cho thấy cân nặng tăng làm tăng nguy cơ nồng độ progesterone huyết thanh thấp ở ngày chuyển phôi lên 1,04 lần (OR; KTC 95%: 1,0006 - 1,07, p = 0,05) và thời gian từ khi dùng liều progesterone cuối đến thời điểm lấy máu càng dài thì nguy cơ nồng độ progesterone thấp tăng 1,11 lần (OR; KTC 95%: 1,03 - 1,19, p = 0,004). Kết luận: Tỷ lệ chu kỳ chuyển phôi trữ lạnh có nồng độ progesterone huyết thanh thấp vào ngày chuyển phôi là cao. Yếu tố liên quan của nồng độ progesterone thấp vào ngày chuyển phôi là cân nặng tăng và thời gian từ liều progesterone cuối đến khi lấy máu xét nghiệm kéo dài.
#chuyển phôi trữ lạnh #nồng độ progesterone huyết thanh #chuẩn bị nội mạc tử cung #chu kỳ nhân tạo
BẤT THƯỜNG XUẤT PHÁT ĐỘNG MẠCH VÀNH TRÁI TỪ ĐỘNG MẠCH PHỔI: KẾT QUẢ ĐIỀU TRỊ PHẪU THUẬT 60 TRƯỜNG HỢP TẠI BỆNH VIỆN NHI TRUNG ƯƠNG
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 526 Số 1A - 2023
Mục tiêu: Đánh giá kết quả trung hạn phẫu thuật điều trị bệnh tim bẩm sinh bất thường xuất phát động mạch vành trái từ động mạch phổi tại Trung tâm Tim mạch-Bệnh viện Nhi Trung ương. Đối tượng-phương pháp: Từ tháng 6 năm 2011 đến tháng 1 năm 2021, tổng số 60 bệnh nhân được chẩn đoán bất thường xuất phát động mạch vành trái từ động mạch phổi được phẫu thuật chuyển động mạch vành trái trực tiếp về động mạch chủ tại Bệnh viện Nhi Trung ương được tiến hành nghiên cứu hồi cứu. Kết quả: Cân nặng trung bình và tuổi trung bình của các bệnh nhân trong nhóm nghiên cứu lần lượt là 5.8 ± 2.1 kg và 6.8 ± 12.4 tháng. Tỷ lệ nam/nữ là 25/35. Có 4 bệnh nhân (6.7%) có bất thường trong tim phối hợp bao gồm 2 bệnh nhân tứ chứng Fallot, 1 bệnh nhân thông liên thất và 1 bệnh nhân màng ngăn nhĩ trái-hẹp eo động mạch chủ. Kết quả siêu âm trước phẫu thuật cho thấy có 21 bệnh nhân hở van hai lá mức độ từ trung bình-nặng đến rất nặng, chức năng tâm thất trái trước mổ trung bình là 39.5 ± 15.7% (14%-76%). Có 48 trường hợp (80%) động mạch vành trái xuất phát từ xoang Valsalva đối diện, 7 trường hợp (11.7%) động mạch vành trái xuất phát từ xoang không vành của động mạch phổi, và 5 trường hợp (8.3%) động mạch vành trái xuất phát từ thân động mạch hoặc gốc động mạch phổi. Thời gian chạy máy trung bình, thời gian cặp động mạch chủ trung bình của nghiên cứu lần lượt là 112.6 ± 38.3 phút và 65.5 ± 26.2 phút. Có 51 bệnh nhân (85%) được trồng trực tiếp động mạch vành trái vào động mạch chủ, và 9 bệnh nhân (15%) cần tạo đường hầm ngoài động mạch phổi. Có 3 bệnh nhân (5%) tử vong sớm tại bệnh viện. Có 4 bệnh nhân cần mổ lại trong thời gian theo dõi sau phẫu thuật (7%). Khám lại tại thời điểm cuối cùng cho thấy các bệnh nhân đều ổn định, có 3 bệnh nhân có NYHA 2, và 54 bệnh nhân còn lại đều không có triệu chứng của suy tim sau mổ. Kết luận: Kết quả trung hạn phẫu thuật điều trị bệnh bất thường xuất phát động mạch vành trái từ động mạch phổi tại Bệnh viện Nhi Trung ương là rất tốt. Cần tiếp tục theo dõi dài hạn và đánh giá sâu hơn nữa về tiến triển của chức năng tim và tình trạng hở van hai lá sau phẫu thuật.
#Động mạch vành trái xuất phát từ động mạch phổi #phẫu thuật chuyển động mạch vành về động mạch chủ #bệnh tim bẩm sinh
Mối tương quan giữa khoảng thời gian chờ từ phẫu thuật nội soi buồng tử cung cắt đốt polyp đến khi bắt đầu chuẩn bị nội mạc tử cung chuyển phôi trữ và tỷ lệ thai diễn tiến sau chuyển phôi trữ
Tạp chí Phụ Sản - Tập 21 Số 3 - Trang 67-73 - 2023
Đặt vấn đề: Nghiên cứu được thực hiện nhằm khảo sát mối liên quan giữa trì hoãn chuyển phôi trữ sau khi thực hiện nội soi buồng tử cung và kết quả thai. Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu đoàn hệ hồi cứu được tiến hành tại Bệnh viện Mỹ Đức, từ 01/2016 đến 06/2019. Phụ nữ từ 18 - 45 tuổi, điều trị thụ tinh trong ống nghiệm, có nội soi buồng tử cung cắt polyp trước khi chuyển phôi trữ, chuẩn bị nội mạc tử cung bằng phác đồ nội tiết ngoại sinh và chuyển phôi giai đoạn phân chia được nhận vào nghiên cứu. Bệnh nhân được chia thành hai nhóm dựa vào độ dài khoảng thời gian từ sau khi nội soi buồng tử cung đến khi bắt đầu chuẩn bị nội mạc tử cung để chuyển phôi trữ: nhóm trì hoãn và không trì hoãn. Kết cục chính của nghiên cứu là tỷ lệ thai diễn tiến.                   Kết quả: Không có sự khác biệt giữa hai nhóm về các đặc điểm nền, BMI, AMH. Có trung bình 1,8 ± 0,4 polyp với kích thước trung bình 8,1 ± 3,3 mm đã được cắt. Số lượng và chất lượng phôi chuyển, độ dày nội mạc tử cung khác biệt không có ý nghĩa thống kê giữa hai nhóm. Thời gian từ khi nội soi buồng tử cung đến khi bắt đầu chuẩn bị nội mạc tử cung trung bình ở nhóm A là 6,4 ± 3,5 ngày và ở nhóm B là 68,2 ± 63,4 ngày. Tỷ lệ thai diễn tiến sau chuyển phôi trữ ở nhóm A là 52/201 (25,9%) và ở nhóm B là 84/221 (38,0%) (Khác biệt tuyệt đối 12,1, khoảng tin cậy 95% 2,9 - 21,4, p = 0,01). Phân tích dưới nhóm cho thấy trì hoãn chuyển phôi ≤ 2 chu kỳ kinh cho tỷ lệ thai diễn tiến cao hơn khi so sánh với nhóm không trì hoãn (OR = 2,08, khoảng tin cậy 95% 1,09 - 3,95, p = 0,025). Phân tích hồi quy đơn biến và đa biến cho thấy tuổi (OR = 0,93, khoảng tin cậy 95% 0,88 - 0,97, p = 0,001) và trì hoãn chuyển phôi (OR = 1,70, khoảng tin cậy 95% 1,11 - 2,63, p = 0,016) là các yếu tố ảnh hưởng đến tỷ lệ thai diễn tiến sau chuyển phôi trữ. Kết luận: Ở bệnh nhân nội soi buồng tử cung cắt polyp trước khi chuyển phôi trữ, trì hoãn chuyển phôi ≤ 2 chu kỳ có liên quan đến tỷ lệ thai diễn tiến sau chuyển phôi trữ cao hơn so với nhóm không trì hoãn.
#nội soi buồng tử cung #polyp nội mạc tử cung #cắt polyp #chuyển phôi trữ #thai diễn tiến
KẾT QUẢ LÂM SÀNG CỦA CÁC TRƯỜNG HỢP CHUYỂN MỘT PHÔI NANG QUA PHƯƠNG PHÁP NUÔI CẤY TIME LAPSE TẠI TRUNG TÂM HỖ TRỢ SINH SẢN VINMEC TIMES CITY
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 510 Số 1 - 2022
Mục tiêu: Phân tích mối liên quan giữa các bất thường xuất hiện trong quá trình phân chia của phôi giai đoạn sớm và kết quả lâm sàng. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu tiến hành trên 88 trường hợp chuyển 1 phôi nang trong chu kỳ chuyển phôi đông lạnh, các phôi được tạo ra từ chu kỳ thụ tinh ống nghiệm và nuôi cấy phôi bằng hệ thống timelapse. Các bệnh nhân sẽ được đánh giá kết quả có thai bằng xét nghiệm βhcg vào ngày 14 sau chuyển phôi và siêu âm theo dõi đến thai diễn tiến, sau 10 tuần. Kết quả: tỷ lệ βhcg (+), thai lâm sàng, thai diễn tiến lần lượt là 62,5%, 55,7%, 51,1%. Trong đó, tỷ lệ có thai của nhóm không xuất hiện bất thường trong phân chia giai đoạn đầu cao hơn so với nhóm bất thường ở cả 2 lần phân chia đầu tiên, về tỷ lệ βhcg (+) (67% so với 51%), tỷ lệ thai lâm sàng (61% so với 41%) và tỷ lệ thai diễn tiến (56% so với 37%), tuy nhiên sự khác biệt không có ý nghĩa thống kê. Không ghi nhận trường hợp có thai nào khi chuyển các phôi có hình thành không bào trong phôi bào giai đoạn phôi dâu. Kết luận: những phôi không xuất hiện bất thường trong những lần phân chia đầu tiên của phôi sẽ mang lại kết quả có thai tốt hơn so với những phôi có bất thường xuất hiện 2 lần. Tuy nhiên, cần thực hiện nghiên cứu với cỡ mẫu lớn hơn để thu được kết quả có độ tin cậy cao hơn.
Polyp nội mạc tử cung phát hiện trong quá trình kích thích buồng trứng và kết cục chu kỳ chuyển phôi trữ sau cắt polyp
Tạp chí Phụ Sản - Tập 18 Số 4 - Trang 33-40 - 2021
Giới thiệu: Polyp nội mạc tử cung là bất thường buồng tử cung thường gặp nhất, đặc biệt ở các phụ nữ vô sinh. Việc phát hiện các polyp nội mạc tử cung trong quá trình kích thích buồng trứng- Thụ tinh trong ống nghiệm (KTBT–TTTON) là khá thường gặp trên lâm sàng. Chuyển phôi tươi hay đông lạnh phôi ở các chu kỳ này vẫn còn nhiều bàn cãi. Mục tiêu nghiên cứu: đánh giá kết cục chu kỳ chuyển phôi trữ sau phẫu thuật nội soi cắt polyp và so sánh với các chu kỳ chuyển phôi trữ (CPT) sau trữ phôi toàn bộ (TPTB) do các nguyên nhân khác. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu hồi cứu trên các bệnh nhân hoàn thành chu kỳ CPT đầu tiên sau khi trữ phôi toàn bộ do bất kỳ nguyên nhân nào khi thực hiện TTTON bằng phương pháp ICSI tại khoa Hỗ trợ sinh sản- Bệnh viện Trung Ương Huế trong khoảng thời gian từ tháng 01/2019 đến tháng 06/2020. Tiêu chuẩn chọn bệnh bao gồm: các chu kỳ TTTON bằng trứng tự thân, tuổi trẻ dưới 35 tuổi, có phôi ngày 3 chất lượng tốt có thể trữ đông bằng phương pháp thủy tinh hóa và vẫn ở tình trạng tốt sau khi rã đông. Tiêu chuẩn loại trừ bao gồm: chuyển ít hơn 2 phôi và nhiều hơn 3 phôi, không có ít nhất 1 phôi tốt, bệnh lý vòi tử cung hoặc LNMTC nặng. Các bệnh nhân được chia làm 4 nhóm: nhóm 1 gồm các bệnh nhân TPTB do polyp nội mạc tử cung phát hiện trong khi KTBT, nhóm 2 gồm các bệnh nhân TPTB do nguy cơ QKBT, nhóm 3 gồm các bệnh nhân TPTB do tăng Progesterone sớm và nhóm 4 TPTB do các nguyên nhân khác. Kết quả: trong 379 chu kỳ KTBT bằng trứng tự thân, có 30 trường hợp mới được chẩn đoán polyp NMTC trong khi KTBT, với tỉ lệ 7,9%. 92 chu kỳ chuyển phôi trữ thỏa mãn tiêu chuẩn nhận-loại được đưa vào nghiên cứu, trong đó có 18 chu kỳ sau phẫu thuật cắt polyp nội mạc tử cung. Tỷ lệ bhCG dương tính, tỉ lệ thai lâm sàng và tỉ lệ làm tổ của nhóm bệnh nhân chuyển phôi trữ sau khi phẫu thuật cắt polyp NMTC  lần lượt là 55,6%; 50% và 26,9%; tương đồng với các nhóm TPTB do các nguyên nhân khác. Không có mối liên quan nào giữa các yếu tố độc lập bao gồm tuổi, BMI, số phôi chuyển, nội mạc tử cung và nguyên nhân đông phôi toàn bộ với tỉ lệ có thai lâm sàng.  Kết luận: Đông phôi toàn bộ, phẫu thuật nội soi buồng cắt polyp nội mạc tử cung sau đó chuyển phôi trữ ở các chu kỳ tiếp theo là một lựa chọn mang lại tỉ lệ có thai phù hợp. Tuy nhiên cần các nghiên cứu tiến cứu với cỡ mẫu lớn được thực hiện để xác thực các phát hiện trong nghiên cứu này.
#polyp buồng tử cung #phẫu thuật nội soi cắt polyp buồng tử cung #chuyển phôi trữ #trữ phôi toàn bộ
KẾT QUẢ SỚM PHẪU THUẬT ĐIỀU TRỊ BỆNH BẤT THƯỜNG TRỞ VỀ TĨNH MẠCH PHỔI HOÀN TOÀN THỂ DƯỚI TIM CÓ TẮC NGHẼN TẠI BỆNH VIỆN NHI TRUNG ƯƠNG
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 520 Số 1A - 2022
Mục tiêu: Đánh giá kết quả sớm phẫu thuật chuyển các tĩnh mạch phổi về nhĩ trái điều trị bệnh bất thường trở về tĩnh mạch phổi hoàn toàn thể dưới tim có tắc nghẽn tại Trung tâm Tim mạch-Bệnh viện Nhi Trung ương. Đối tượng-phương pháp nghiên cứu: Trong thời gian từ năm 2011 đến năm 2017, các bệnh nhân được phẫu thuật chuyển các tĩnh mạch phổi về tim trái trong bệnh bất thường trở về tĩnh mạch phổi hoàn toàn thể dưới tim có tắc nghẽn được tiến hành nghiên cứu hồi cứu. Kết quả: Có tổng số 20 bệnh nhân được thu thập vào nghiên cứu. Tỷ lệ nam/nữ là 13/7 bệnh nhân. Tuổi trung bình của các bệnh nhân trong nhóm nghiên cứu là 16.25 ± 20.14 ngày (1-80 ngày), cân nặng trung bình của các bệnh nhân là 3.2 ± 0.87 kg (1.9-5.7 kg). Có 6 bệnh nhân (30%) nhập viện trong tình trạng sốc tim cần phẫu thuật cấp cứu, và 11 bệnh nhân (55%) cần hỗ trợ máy thở trước phẫu thuật. Thời gian cặp động mạch chủ trung bình trong nhóm nghiên cứu là 67.9  ± 24.7 phút (41-154 phút), thời gian chạy máy trung bình là 132.8 ± 41.5 phút (82-247 phút). Có 3 bệnh nhân (15%) cần để hở xương ức sau phẫu thuật. Có 1 bệnh nhân (5%) tử vong sau phẫu thuật, không có bệnh nhân nào cần mổ lại do hẹp miệng nối tĩnh mạch phổi nhĩ trái trong thời gian theo dõi. Kết luận: Kết quả sớm sau phẫu thuật chuyển các tĩnh mạch phổi về nhĩ trái điều trị bệnh bất thường trở về tĩnh mạch phổi hoàn toàn thể dưới tim có tắc nghẽn tại Bệnh viện Nhi Trung ương là khả quan. Cần một nghiên cứu có số lượng bệnh nhân lớn hơn và theo dõi dài hơn nhằm đánh giá chính xác kết quả điều trị bệnh tim bẩm sinh phức tạp này.
#bất thường trở về tĩnh mạch phổi hoàn toàn thể dưới tim #tắc nghẽn trở về tĩnh mạch phổi #toàn thể dưới tim #tắc nghẽn trở về tĩnh mạch phổi #phẫu thuật chuyển các tĩnh mạch phổi về nhĩ trái sutureless
NGHIÊN CỨU HIỆU QUẢ CHUYỂN PHÔI NANG TRỮ ĐÔNG VÀ SỐ MỘT YẾU TỐ LIÊN QUAN TẠI BỆNH VIỆN HỖ TRỢ SINH SẢN VÀ NAM HỌC ĐỨC PHÚC
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 507 Số 2 - 2021
Mục tiêu: Xác định được tỷ lệ sống sau rã đông của phôi nang và xác định tỷ lệ có thai của chuyển phôi nang trữ đông. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu hồi cứu, đánh giá tỷ lệ sống của phôi nang sau rã đông và tỷ lệ  có thai của 365 trường hợp chuyển phôi nang tại Bệnh viện Hỗ trợ sinh sản (HTSS) và Nam học Đức Phúc, trong thời gian từ tháng 1 đến hết tháng 8 năm 2021. Kết quả: Từ tháng 1/2021 đến tháng 8/2021 có 365 trường hợp phù hợp tiêu chuẩn nghiên cứu. Tỷ lệ sống sau rã đông 99,85%. Tỷ lệ β-hCG dương tính và tỷ lệ mang thai lâm sàng của nhóm này lần lượt là 74,79% và 67,12%. Tỷ lệ làm tổ của phôi là 40,35 %. Kết luận: Kết quả có thai là khá cao khi chuyển phôi nang trữ đông và trường hợp tiên lượng tốt chỉ nên chuyển 1 phôi có chất lượng tốt hoặc phôi trung bình nên chuyển kèm thêm 1 phôi tốt, khá, trung bình.
BẤT THƯỜNG TRỞ VỀ TĨNH MẠCH PHỔI HOÀN TOÀN THỂ TRÊN TIM CÓ TẮC NGHẼN: KẾT QUẢ TRUNG HẠN PHẪU THUẬT CHUYỂN CÁC TĨNH MẠCH PHỔI VỀ NHĨ TRÁI TẠI BỆNH VIỆN NHI TRUNG ƯƠNG
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 526 Số 2 - 2023
Mục tiêu: Đánh giá kết quả trung hạn phẫu thuật chuyển các tĩnh mạch phổi về nhĩ trái trong điều trị bệnh tim bẩm sinh bất thường trở về tĩnh mạch phổi hoàn toàn thể trên tim có tắc nghẽn tại Trung tâm Tim mạch-Bệnh viện Nhi Trung ương. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Các bệnh nhân được chẩn đoán và bất thường trở về tĩnh mạch phổi hoàn toàn trên tim có tắc nghẽn và được phẫu thuật chuyển các tĩnh mạch phổi về tim trái trong thời gian từ năm 2011 đến năm 2017 được tiến hành nghiên cứu hồi cứu. Kết quả: 49 bệnh nhân được thu thập nghiên cứu hồi cứu. Tỷ lệ nam/nữ là 29/20 bệnh nhân. Tuổi trung bình của các bệnh nhân trong nhóm nghiên cứu là 72.1 ± 89.3 ngày (1-540 ngày), cân nặng trung bình của các bệnh nhân là 4 ± 1.2 kg (1.7-8 kg). 12 bệnh nhân (24.5%) nhập viện trong tình trạng sốc tim cần phẫu thuật cấp cứu, và 37 bệnh nhân (75.5%) có suy hô hấp trong đó 28 bệnh nhân (57.1%) cần hỗ trợ thở máy trước phẫu thuật, và 35 bệnh nhân (71.4%) có tình trạng huyết động không ổn định cần hỗ trợ vận mạch trước mổ. Thời gian chạy máy trung bình và thời gian cặp động mạch chủ trung bình trong nhóm nghiên cứu lần lượt là 112.2 ± 39.9 phút (72-270 phút) và 50 ± 63.1 phút (32-127 phút). Có 26 bệnh nhân (53.1%) được thực hiện kỹ thuật sutureless nhằm chuyển các tĩnh mạch phổi về nhĩ trái. Có 1 bệnh nhân  cần hỗ trợ ECMO và 4 bệnh nhân cần để hở xương ức sau phẫu thuật. Có 6 bệnh nhân (12%) tử vong sau phẫu thuật, có 1 bệnh nhân nào cần mổ lại do hẹp miệng nối tĩnh mạch phổi nhĩ trái trong thời gian theo dõi, và 2 bệnh nhân (4.1%) tử vong muộn trong thời gian theo dõi. Kết luận: Kết quả trung hạn phẫu thuật điều trị bất thường trở về tĩnh mạch phổi hoàn toàn thể trên tim có tắc nghẽn tại Bệnh viện Nhi Trung ương là khả quan. Cần một nghiên cứu có số lượng bệnh nhân lớn hơn và theo dõi dài hơn nhằm đánh giá chính xác kết quả điều trị bệnh tim bẩm sinh phức tạp này.
#bất thường trở về tĩnh mạch phổi hoàn toàn thể trên tim #tắc nghẽn trở về tĩnh mạch phổi #phẫu thuật chuyển các tĩnh mạch phổi về nhĩ trái sutureless thì đầu.
Tổng số: 35   
  • 1
  • 2
  • 3
  • 4