Vietnam Journal of Marine Science and Technology

Công bố khoa học tiêu biểu

* Dữ liệu chỉ mang tính chất tham khảo

Sắp xếp:  
Yearly dynamics of the content and composition of total lipid and lipid classes in the hydrocoral \(\textit{Millepora platyphylla}\) from coastal water of Nha Trang, Khanh Hoa, Vietnam
Andrey Imbs Borisovich, Phuong Ly Dang Thi, Ba Kien Nguyen, Thu Huong Trinh Thi, Pham Quoc Long Pham Quoc Long, Minh Tuyet Dang Thi
The coral Millepora platyphylla was collected for 12 consecutive months in the Nha Trang, Khanh Hoa, coastal areas to study their lipid content and composition. The total lipid content (dry weight) ranged from 0.26–0.63%. The total content tends to increase in the summertime and decrease in the wintertime and there is a correlation with the ambient sampling temperature. The fatty acid class (FFA) accounts for less than 2% of the total lipid. The sterol class (ST) ranged from 6.81–9.86%, polar lipid (PL): 11.07–18.92%, monoalkyldiacylalycerol (MADAG): 18.41–22.78%, wax layer (W): 18.65–25.0%, trialkyldiacylalycerol (TAG) accounted for the largest proportion in total lipid, ranged from 27.58–35.32%. The seasonal variation is significant: the content of FFA, ST, PL decrease during summertime and increase in wintertime, and in contrast to the class of MADAG, W, and TAG. The lipid reverse class (TAG, MADAG, W) is more stable than structural lipid classes (PL, ST). The decrease in W between samples collected in September-October, the TAG concentration between the sample in October-November, the high distribution of the PL concentration in December might closely related to the changing habitat, such as seasonal water temperature and solar radiation, as well as the maturation and reproduction of Millepora platyphylla.
#Lipid #composition of total lipid #lipid class #hydrocoral #Millepora platyphylla.
ASSESSING THE HYDROCHEMICAL CHARACTERISTICS OF THE ORGANIC SHRIMP MODEL AT TAM GIANG COMMUNE, NAM CAN DISTRICT, CA MAU PROVINCE
Dang Nguyen Nha Khanh, Nguyen Tho
Bài báo này làm sáng tỏ các đặc điểm thủy hóa trong mô hình tôm sinh thái được Naturland công nhận tại xã Tam Giang, huyện Năm Căn, tỉnh Cà Mau. Mẫu nước mặt được lấy tại 8 ao nuôi, tại 3 thời điểm có sự khác biệt rõ về lượng mưa trong năm (tháng 3, tháng 7 và tháng 11/2015) và phân tích các thông số thủy hóa liên quan. Kết quả cho thấy độ mặn, độ kiềm tổng số và độ cứng toàn phần phụ thuộc rất lớn vào lượng mưa và lượng bốc hơi theo mùa, cao nhất giữa mùa khô (tháng 3) và giảm dần đến cuối mùa mưa-đầu mùa khô (tháng 11). Phần lớn các thông số dao động trong năm nhưng vẫn phù hợp cho nuôi tôm. Các hạn chế chủ yếu gồm hiện tượng quá bão hòa oxy vào ban ngày (7,48 ± 0,45 mg/l), nghèo dưỡng chất hòa tan (NH4-N 0,21 ± 0,05 mg/l, NO3-N 0,06 ± 0,02 mg/l, PO4-P 0,02 ± 0,01 mg/l) và hàm lượng sắt cao (Fe2+ 0,08 ± 0,01 mg/l, Fe3+ 0,64 ± 0,14 mg/l) so với tiêu chuẩn cho phép trong nước nuôi tôm. Tổng năng suất tôm rất thấp (355,4 kg/ha mặt nước/năm, trong đó tôm tự nhiên chiếm 55%), có tương quan thuận với độ sâu mực nước và nhiệt độ nhưng tương quan nghịch với Fe2+. Để cải thiện chất lượng nước và tăng năng suất tôm cần tăng độ sâu mực nước, gia tăng hàm lượng dưỡng chất trong ao nuôi và hạn chế ảnh hưởng của sự chảy tràn bề mặt vào đầu mùa mưa.
#Organic shrimp farming #mangrove #hydrochemistry #Ca Mau.
THE TETRODOTOXIN TOXICITY IN THE WHITE LEG SHRIMP LITOPENAEUS VANAMEI (BOONE, 1931) FEED BY TOXIC PUFFER IN REARING EXPERIMENT
Pham Xuan Ky, Nguyen Phuong Anh, Dao Viet Ha
One-month old white leg shrimp Litopenaeus vanamei (Boone, 1931) was fed on the food pellet made from muscle and liver of the toxic puffer fish Torquigener gloerfelti for 4 months under rearing condition. The result of no difference of survive and growth rate between experimental and control one indicates that there was no negative effect from TTX contained food to the tested shrimp. There was a continuous increase in the toxicity of experimental L. vanamei during the rearing time (R2 = 0.97). After rearing for three months, TTX toxicity of L. vanamei reached the safety limit (10 MU/g), then 1.5 times higher in the end of experiment. On the other hand, after  rearing for 4 months, 33.3 % individuals exhibited TTX toxicity higher than 10 MU/g, in which some of them showed very high toxicity (>100 MU/g). The results indicated that with a certain TTX amount from food supply, the product from cultured shrimp may cause poisoning to human. Therefore, using toxic puffer for feeding in aquaculture is not safety way.
Water quality at Cai river mouth and Tac river mouth, Nha Trang bay (2015–2019)
Van Do Anh, Phu Le Hung, Dung Le Trong, Ngoc Pham Hong, Ha Dao Viet, Thu Nguyen Hong
Deltas of large rivers, especially in arid areas, have been used in ancient times for agriculture and are densely populated. In recent decades, many river deltas have been experiencing an increasing anthropogenic impact, contamination of watersheds, and marine pollution caused by the offshore extraction of hydrocarbons. Combining of these factors determines a considerable research interest in river mouth areas. This paper presents the annual monitoring data on the water environment of the two mouths of the Cai river and Tac river, Nha Trang bay, during the period 2015–2019. Statistical data showed an increase in dissolved oxygen demand (DO), biological oxygen demand BOD5, and the concentrations of ammonia, Zn and Cu. Seasonal variation revealed that most of studied parameters’ concentrations, especially nutrients, were higher in the rainy season. In contrast, the values of total suspended solids (TSS) and hydrocarbon (Cai River), and petroleum (Tac river) demonstrated a decrease. Generally, the average value of BOD5, concentrations of Cu and Pb at the Cai river mouth were lower than those at the Tac river mouth, whereas the concentration of Zn was higher. Overall, the water environment of both mouths was qualified for aquaculture and aquatic organism preservation purposes except for the case of coliform.
#Water quality #monitoring #Cai river mouth #Tac river mouth #Nha Trang bay.
MỘT SỐ KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VỀ VI SINH VẬT TẠI VÙNG VEN BIỂN HẢI PHÒNG
Đỗ Mạnh Hào, Phạm Thế Thư
Từ 50 mẫu nước và trầm tích vùng ven biển Hải Phòng đã phân lập được 65 chủng vi khuẩn điển hình thuộc 31 loài, 16 chi, 8 họ và 2 bộ. Số lượng nhóm vi khuẩn hiếu khí rừng ngập mặn Bàng La, Tràng Cát khá cao, biến động 104 - 107tb/ml,g; xạ khuẩn từ 0 - 102tb/ml,g; nấm men từ 0 - 2.102tb/ml,g và nấm sợi có mật độ đạt tới 103tb/ml,g. Số lượng vi khuẩn hiếu khí và xạ khuẩn trong các mẫu trầm tích thường cao hơn mẫu nước bề mặt từ 10 - 100 lần, nhưng nấm sợi và nấm men lại có xu hướng ngược lại, đặc biệt vào mùa mưa. Nhiều chủng vi khuẩn có hoạt tính nitrat hoá, phản nitrat, phân giải protein, tinh bột và khả năng đối kháng với vi khuẩn gây bệnh Vibrio parahaemolyticus và Vibrio fuoniss cao. Chế phẩm dạng lỏng và bột được tạo ra từ tổ hợp một số chủng vi khuẩn trên khi thử nghiệm trên nước thải đầm nuôi trồng thuỷ sản cho thấy các chỉ tiêu môi trường được phân tích là DO, COD, BOD5 và NH4+ có sự cải thiện đáng kể so với mẫu đối chứng sau 10 ngày thả chế phẩm.Summary: From 50 water and sediment samples collected in coastal zone of Haiphong, we have isolated 65 bacterial strains and identification belong to 31 species, 16 gena, 8 families and 2 orders, the genus Bacillus, there are the highest species number - 8 species, Pseudomonas being 5 species and the other genus has only 1 - 2 species. Aerobic bacterial amounts in Bang la, Trang cat mangrove are quite high, range of 104 - 107tb/ml,g; Actinomycetes is 0 - 102tb/ml,g; yeast is 0 - 2.102tb/ml,g and fungi density can reach up 103tb/ml,g. The number of aerobic bacteria and actinomycetes in sediment samples were higher 10 - 100 times than those in water samples, but the numbers of yeast and fungi were opposite orientation, especially in raining season. Many bacterial strains were tested the ability of nitrifying, denitrifying, degradation of protein, starch and resistibility to pathogens of Vibrio parahaemolyticus and Vibrio fuonissi indicated that had high activities. Liquid and powder probiotics made from a the bacterial combination were evaluated in the wastewater of shrimp aquaculture pond indicating that analysed chemical parameters of DO, COD, BOD5 and NH4+ significantly approved in comparation with control samples in 10 days.
Residue of organochlorinated pesticides (OCPs) in some organisms of the tidal flats in the northern part of Vietnam
Cao Thi Thu Trang
Hóa chất bảo vệ thực vật (HCBVTV) cơ clo đã từng được sử dụng rộng rãi trong nông nghiệp để bảo vệ mùa màng, loại trừ sâu bệnh. Tuy nhiên, chúng đã bị cấm sử dụng ở nhiều quốc gia trên thế giới do tính độc cao, bền vững với môi trường và có khả năng tích lũy sinh học. Chúng được liệt vào nhóm chất có khả năng gây ung thư và nhóm các chất hữu cơ bền vững (POP). Tại Việt Nam, HCBVTV cơ clo đã bị cấm sử dụng từ những năm 1990, nhưng dư lượng của chúng vẫn được tìm thấy trong các hợp phần môi trường biển như nước biển, trầm tích biển và sinh vật biển. Bài báo này trình bày số liệu nghiên cứu về dư lượng HCBVTV cơ clo trong một số loài sinh vật sống trong các bãi triều Vịnh Bắc Bộ thời điểm 2013 -2014. Các kết quả nghiên cứu cho thấy, tổng dư lượng HCBVTV cơ clo trong các sinh vật vùng triều Vịnh Bắc Bộ dao động từ 5,57 – 116,04 g/kg khô. So sánh với các GHCP đối với sinh vật biển của Mỹ (2007) thì hàm lượng này vẫn an toàn đối với người tiêu dung. Tuy nhiên, những hợp chất này vẫn có thể tích lũy và đi vào cơ thể con người qua các chuỗi thức ăn dù ở nồng độ rất nhỏ. Vì vậy, sự có mặt của các hợp chất này trong các sinh vật vùng triều Vịnh Bắc Bộ cũng cần được chú ý và theo dõi.
#Organochlorinated pesticides (OCPs) #tidal flat #organisms.
Application of the wavelet transform modulus maxima and scale normalization to determine gravity anomalies of adjacent sourses
Tin Duong Quoc Chanh, Dau Duong Hieu
Ngày nay, phép biến đổi wavelet được ứng dụng rất nhiều trong việc xử lý và phân tích dữ liệu trường thế nhằm xác định tương đối chính xác vị trí các nguồn gây ra dị thường cùng các thuộc tính của chúng. Với các nguồn dị thường trọng lực liền kề, trường tổng hợp chồng chập lên nhau không chỉ trong miền không gian mà còn cả trong miền tần số, gây khó khăn lớn trong việc định vị các nguồn này. Trong bài báo này, nhóm tác giả đã sử dụng một họ wavelet mới và thực hiện biến đổi wavelet đa phân giải để xác định hiệu quả các thuộc tính của những nguồn trường thế liền kề. Bằng những mô hình lý thuyết, sử dụng phương pháp cực đại wavelet, chúng tôi đã thiết lập được hàm tương quan giữa tham số tỉ lệ trong phép biến đổi wavelet và độ sâu của nguồn dị thường trọng lực. Sự chuẩn hóa tham số tỉ lệ cũng được áp dụng thích hợp để cải thiện độ phân giải, giúp tách biệt các nguồn trường trong tỉ lệ đồ, từ đó xác định được độ sâu của chúng. Sau khi kiểm chứng độ tin cậy và tính khả thi của phương pháp được đề xuất trên các số liệu mô hình, nhóm tác giả đã xây dựng một quy trình xử lý giúp định vị các nguồn dị thường trọng lực liền kề và áp dụng để phân tích một số tuyến đo trọng lực tiêu biểu ở Đồng Bằng Sông Cửu Long. Các kết quả xử lý trong nghiên cứu này là khá phù hợp với các phân tích được công bố trước đây, ngoài ra về mức độ chi tiết là rất trùng khớp với các số liệu địa chất khác.
#Gravity anomalies of adjacent sources #new mother wavelet #wavelet transform modulus maxima (WTMM) #correlative function #scale normalization.
Crablet nursery of mud crab (<i>Scylla paramamosain</i>) with different feed types and stocking densities
Le Quoc Viet
Nghiên cứu nhằm xác định loại thức ăn và mật độ ương thích hợp để nâng cao tỷ lệ sống và tăng trưởng trong ương giống cua biển. Nghiên cứu gồm 2 thí nghiệm: (1) ương cua giống với các loại thức ăn khác nhau (thức ăn công nghiệp, artemia sinh khối và con ruốc sinh khối) và (2) ương cua giống với các mật độ khác nhau (100; 200; 300 và 400 con/m2). Các nghiệm thức được bố trí hoàn toàn ngẫu nhiên và được lặp lại 3 lần. Cua giống có chiều dài ban đầu là 3,24 mm, chiều rộng 4,54 mm và khối lượng 0,018 g. Kết quả thí nghiệm 1 cho thấy, khi sử dụng thức ăn con ruốc sinh khối cho kết quả tốt nhất về tỷ lệ sống (58,8%) và sinh khối đạt 118 con/m2. Thí nghiệm 2 cho thấy, khi ương cua ở mật độ 100 con/m2 cho kết tốt nhất về tỷ lệ sống (90,7%) và sinh khối đạt 91 con/m2.
#Mud crab #Scylla paramamosain #commercial feed #stocking density.
CALCULATIONS OF CURRENTS IN THE UPWELLING REGION ALONG SOlJTH-CENTRAL VIETNAMESE COAST, USING THREE DIMENSIONS (3-D) NONLINEAR MODEL
Currelll regime in th e stro ng upwelling region along Southern CentralVietnamese coast is simulared by solving rhe shallow water wave propagation model using finite element method during southwest monsoon (August 2005) and northeast monsoon (Nov. 2005). The initial calcularion results is good. especially the adaptabiliry of the model to the hard boundcuy, calcularion grid and the stabiliry. The calculation grid is also established in detail according ro th e changing oftopograplty. The calculation results can be Summarized as follows:- During SW monsoon: the velocity of horizontal currents changes slowly and can reach a maximum value of 39 cm/s in ENE direction (60°). The direction of horizontal currents is similarly from surface to the 10m layer- During NE monsoon: Because th ere is 110 significant difference between the velocities of the two wind fields at the selected time periods (the maximum SW monsoon wind velocity is 9.8m/s, average is 8.O m/s, while that of the NE monsoon wind velocity is 10.2m/s; average is 7.9m/s), the horizontal current field oftwo wind fields also shows, no obvious difference. incase of northeast wind field, from the surface to the 10m layer there is almost 110 change in velocity of horizontal currents, the peak velocity reaches 39cm/s, direction is 242°
ĐẶC ĐIỂM THỦY ĐỘNG LỰC VÀ KHẢ NĂNG TRAO ĐỔI NƯỚC KHU VỰC ĐẦM NẠI (NINH THUẬN) - KẾT QUẢ TỪ MÔ HÌNH DELFT3D
Nguyen Van Quan, Vu Duy Vinh
Bài báo trình bày một số kết quả nghiên cứu, đánh giá đặc điểm thủy động lực và khả năng trao đổi nước ở khu vực đầm Nại (Ninh Thuận) trên cơ sở thiết lập mô hình thủy động lực cho khu vực này. Mô hình 3 chiều (mô hình Delft3D) đã được thiết lập, kiểm chứng từ số liệu đo đạc về dòng chảy, mực nước trong mùa mưa và mùa khô. Các kết quả tính toán mô phỏng cho thấy biên độ triều trong đầm Nại giảm 0,05 - 0,2 m so với ngoài biển, thời gian xuất hiện nước lớn và nước ròng chậm hơn lần lượt là 1 giờ và khoảng 1 - 3 giờ. Vận tốc dòng chảy trong đầm thường có giá trị không lớn hơn 0,2 m/s. Khả năng trao đổi nước giữa đầm Nại và vùng biển phía ngoài tương đối tốt so với các đầm khác ở Việt Nam và trên thế giới. Trong các điều kiện thời tiết bình thường, thời gian cần thiết để thay nước trong đầm bằng nước từ biển là 2,4 - 2,7 ngày.
#Nai lagoon #hydrodynamics #flushing time #Delft3D model.
Tổng số: 910   
  • 1
  • 2
  • 3
  • 4
  • 5
  • 6
  • 10