Tạp chí Y học Thảm hoạ và Bỏng
Công bố khoa học tiêu biểu
* Dữ liệu chỉ mang tính chất tham khảo
Sắp xếp:
Đặc điểm rối loạn lo âu ở bệnh nhân bỏng giai đoạn phục hồi chức năng
Tạp chí Y học Thảm hoạ và Bỏng - - 2022
Mục tiêu: Mô tả đặc điểm rối loạn lo âu lan tỏa ở bệnh nhân bỏng giai đoạn hồi phục chức năng tại Bệnh viện Bỏng quốc gia Lê Hữu Trác.Đối tượng và phương pháp: Nghiên cứu mô tả trên 150 bệnh nhân bỏng nội trú trong giai đoạn điều trị phục hồi chức năng tại Khoa phục hồi chức năng tại Bệnh viện Bỏng quốc gia Lê Hữu Trác từ tháng 08/2021 đến 10/2021.Kết quả: Những biểu hiện RLLA ở bệnh nhân bỏng giai đoạn phục hồi chức năng có những mức độ khác nhau về tự ti, biểu hiện về tự ti, lo lắng quá mức, hành vi xa lánh và triệu chứng cơ thể.Kết luận: Đa phần bệnh nhân có các biểu hiện ở mức độ thỉnh thoảng, một số khác ở mức độ hiếm khi và thường xuyên.
#Đặc điểm rối loạn lo âu lan tỏa #Bỏng
Đặc điểm rối loạn đông máu sớm ở bệnh nhân bỏng nặng
Mục tiêu: Đánh giá đặc điểm rối loạn đông máu sớm trên bệnh nhân bỏng nặng.Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu hồi cứu 93 bệnh nhân bỏng người lớn (16 - 65 tuổi), không có bệnh và chấn thương kết hợp, diện tích bỏng ≥ 30% diện tích cơ thể (DTCT), vào viện trong 24 giờ sau bỏng, điều trị tại Khoa Hồi sức cấp cứu ≥ 3 ngày, có kết quả điều trị xác định (sống hoặc tử vong, xin về tử vong). Rối loạn đông máu sớm ở bệnh nhân bỏng nặng được xác định khi INR > 1,5 hoặc aPTT > 60 giây trong vòng 24 giờ đầu sau bỏng.Kết quả: Tỷ lệ rối loạn đông máu sớm là 46,24%. Xét nghiệm lúc vào viện, giá trị PT chủ yếu giảm (61,29%); INR và Fibrinogen phần lớn tăng (73,12% và 52,69%). Nhóm bệnh nhân có rối loạn đông máu sớm có diện tích bỏng sâu, số lượng bệnh nhân thở máy và nồng độ lactat máu động mạch lúc vào viện lớn hơn đáng kể (p < 0,05) so với nhóm không có rối loạn đông máu sớm; trong khi, nhiệt độ lúc vào viện thấp hơn có ý nghĩa (p < 0,05). Các bệnh nhân có rối loạn đông máu sớm có nguy cơ tổn thương thận cấp sớm gấp 3,5 lần và nguy cơ tử vong gấp 3,2 lần các bệnh nhân không có, sự khác biệt có ý nghĩa thống kê (p < 0,05). Kết luận: Tỷ lệ rối loạn đông máu sớm ở bệnh nhân bỏng nặng còn cao. Diện tích bỏng sâu, tăng lactat máu động mạch và hạ thân nhiệt là yếu tố liên quan đến khởi phát rối loạn đông máu sớm. Rối loạn đông máu sớm có liên quan đến biến chứng tổn thương thận cấp sớm và tử vong trên bệnh nhân bỏng nặng.
#rối loạn đông máu #bỏng nặng
Kết quả tái tạo khuyết tổ chức sau phẫu thuật ung thư mũi xoang bằng vạt đùi trước ngoài tự do
Ung thư mũi xoang là một nhóm ung thư hiếm gặp trong các ung thư đầu cổ. Phẫu thuật là phương pháp điều trị chính ung thư mũi xoang. Tổn khuyết hàm trên sau khi phẫu thuật cắt bỏ ung thư có thể dẫn đến không chỉ các vấn đề về chức năng mà còn gây biến dạng thẩm mỹ. Vạt đùi trước ngoài tự do với nhiều ưu điểm nổi trội là lựa chọn hàng đầu cho các tổn khuyết phức tạp vùng hàm mặt. Hiện nay, có rất ít báo cáo về tạo hình khuyết hổng lớn và phức tạp sau phẫu thuật ung thư mũi xoang bằng vạt đùi trước ngoài tự do. Báo cáo này nhằm giới thiệu một số kết quả tái tạo khuyết tổ chức sau phẫu thuật cắt khối ung thư mũi xoang bằng vạt đùi trước ngoài tự do.
#Ung thư mũi xoang #vạt đùi trước ngoài #vạt chùm
Kết quả công tác thu dung, cấp cứu và điều trị cho bệnh nhân tại một số bệnh xá đảo cấp 1 thuộc quần đảo X
Mục tiêu: Nghiên cứu đánh giá kết quả công tác khám bệnh, thu dung, cấp cứu và điều trị người bị thương bị bệnh tại bệnh xá đảo cấp 1 thuộc quần đảo X từ năm 2018 đến năm 2022.Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả cắt ngang, hồi cứu các đặc điểm và kết quả công tác khám bệnh, thu dung, cấp cứu và điều trị cho cho người bị thương, bị bệnh tại bệnh xá của các đảo cấp 1 thuộc Quần đảo X từ năm 2018 đến năm 2022.Kết quả: Tổng số lượt khám tại các bệnh xá là 26109 lượt, trung bình là 435 lượt/tháng. Tỉ lệ bệnh nhân được thu dung điều trị chiếm tỷ lệ 7,77%. Tổng số bệnh nhân phải cấp cứu là 512. Tỷ lệ cấp cứu chiếm 25,25% so với tổng thu dung. Cơ cấu bệnh tập trung vào một số nhóm bệnh như: Tổn thương, ngộ độc và hậu quả của một số nguyên nhân từ bên ngoài với tỷ lệ cao nhất (23,01 ± 2,20%); Sau đó là các bệnh của da và tổ chức dưới da, các bệnh của hệ hô hấp và hệ tiêu hóa. Trong 5 bệnh có tỷ lệ mắc cao nhất, vết thương phần mềm chiếm tỉ lệ cao nhất với 13,06 ± 0,97%, tiếp đó là các bệnh viêm da; viêm, nhiễm trùng đường hô hấp trên cấp; hội chứng ruột kích thích và sốt chưa rõ nguyên nhân. Phương pháp điều trị cho các bệnh nhân tại bệnh xá chủ yếu là nội khoa chiếm tỷ lệ 71,65%. Trong 5 năm, có 144 bệnh nhân được vận chuyển về đất liền bằng các loại phương tiện: tàu quân sự, tàu dân sự (tàu đánh cá) và máy bay.Kết luận: Công tác khám chữa bệnh tại bệnh xá đảo cấp 1 trong 5 năm 2018 - 2022 đã hoàn thành tốt nhiệm vụ chăm sóc sức khỏe bộ đội và nhân dân trong khu vực.
#Thu dung #cấp cứu #bệnh xá đảo cấp 1
Acute toxicity of nano Berberine gel in white mice.
Tạp chí Y học Thảm hoạ và Bỏng - - 2022
Berberine is isolated from Coscinium fenestratum and some plants in the family Ranunculaceae which has the effect of treating burn wounds. The study determined acute oral toxicity administration in white mice of nano Berberine gel (NBBR) produced by the Le Huu Trac National Burns Hospital.Research methods: The research method was accorded to the guidelines of the Ministry of Health, World Health Organization. Evaluation of 120 mice, divided into 10 groups, NBBR dosages were gradually increased from 30.9g/kg to 123.96g/kg by oral administration. Results: No dead mice, no abnormal disorders in movement and digestion; no abnormal histopathological found in livers, spleens and kidneys.Conclusion: LD50 (Median Lethal Dosage) of NBBR gel had not been determined in white mice by oral administration with the highest dose that could be given 123.96g/kg body weight/day.
#Acute toxicity #white mice #nano Berberine gel (NBBR) #pathology
Nghiên cứu độc tính bán cấp trên lâm sàng của gel nano Berberin ở chuột cống trắng
Tạp chí Y học Thảm hoạ và Bỏng - - 2022
Berberin được phân lập từ cây Coscinium fenestratum và một số cây trong họ Ranunculaceae có tác dụng chữa vết thương do bỏng. Nghiên cứu xác định độc tính bán cấp tính trên lâm sàng của gel nano Berberine do Bệnh viện Bỏng quốc gia Lê Hữu Trác sản xuất qua đường uống ở chuột cống trắng.Phương pháp nghiên cứu được thực hiện theo hướng dẫn của Bộ Y tế, OECD. Tiến hành trên 30 con chuột, chia thành 3 nhóm, nhóm thử liều 1 uống liều 3,5g/1kg/24h, nhóm thử liều 2 uống 10,5g/1kg/24h, nhóm chứng uống nước cất với liều 10,2ml/1kg/24h. Uống liều liên tục trong 28 ngày.Kết quả: Không có chuột chết, không có rối loạn bất thường về vận động và tiêu hóa; không có biểu hiện co giật, run, tăng tiết mồ hôi, tím tái.Kết luận: Gel nano Berberin an toàn trên lâm sàng khi cho chuột cống uống trong 28 ngày với liều 3,5g/1kg/24h và 10,5g/1kg/24h.
#Nano Berberin #chuột cống trắng #độc tính bán cấp
Nghiên cứu tính kích ứng da của gel nano Berberin trên da lành của động vật thực nghiệm
Tạp chí Y học Thảm hoạ và Bỏng - - 2022
Berberin được phân lập từ cây Coscinium fenestratum và một số cây trong họ Ranunculaceae có tác dụng chữa vết thương, vết bỏng. Nghiên cứu xác tính kích ứng da lành thỏ của gel nano Berberine do Bệnh viện Bỏng quốc Lê Hữu Trác gia sản xuất. Phương pháp nghiên cứu được thực hiện theo hướng dẫn của Bộ Y tế, OECD. Tiến hành trên 3 thỏ, đắp gạc tẩm gel nano Berberin 0,5g lên vùng da lành 2,5 x 2,5cm; sau 4 giờ bóc bỏ gạc, làm sạch. Đánh giá chỉ số kích ứng sau 24, 48 và 72 giờ sau bóc bỏ gạc.Kết quả: Chỉ số kích ứng bằng 0 (không xuất hiện ban đỏ và tạo vảy, không phù nề ở da lành thỏ). Không có thỏ chết, thỏ vẫn khỏe mạnh, sinh hoạt bình thường.Kết luận: Gel nano Berberin an toàn, không gây kích ứng trên da lành thỏ.
#Nano Berberin #thỏ #kích ứng da
Nghiên cứu hiệu quả dự phòng buồn nôn, nôn và các tác dụng không mong muốn của Granisetron sau phẫu thuật tuyến giáp
Tạp chí Y học Thảm hoạ và Bỏng - - 2021
Mục tiêu nghiên cứu: Đánh giá hiệu quả dự phòng buồn nôn và nôn, các tác dụng không mong muốn của Granisetron sau phẫu thuật tuyến giáp.Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: 80 bệnh nhân tuổi từ 16 trở lên, tình trạng sức khỏe theo phân loại ASA I, II có chỉ định phẫu thuật tuyến giáp dưới gây mê nội khí quản, được chia làm hai nhóm, mỗi nhóm 40 bệnh nhân. Nhóm Granisetron (G): Ngay trước tiền mê, tiêm tĩnh mạch Granisetron 1mg.Nhóm Ondansetron (O): Ngay trước tiền mê, tiêm tĩnh mạch Ondansetron 4mg.Kết quả: Tỷ lệ bệnh nhân buồn nôn, nôn sau phẫu thuật 6 - 8 giờ và 0 - 24 giờ ở nhóm G tương ứng là 0% và 5% thấp hơn ở nhóm O là 15% và 22,5%, khác biệt có ý nghĩa thống kê với p < 0,05. Tỷ lệ đau đầu, chóng mặt, khô miệng, táo bón ở nhóm G tương ứng là 10%; 12,5%; 7,5%; 7,5% và ở nhóm O tương ứng là 15%; 15%; 10%; 17,5% sự khác biệt không có ý nghĩa thống kê với p > 0,05.Kết luận: Granisetron tiêm tĩnh mạch có hiệu quả dự phòng buồn nôn nôn sau phẫu thuật tuyến giáp với các tác dụng không mong muốn thấp, nhẹ, thoáng qua.
#Buồn nôn và nôn #phẫu thuật tuyến giáp #Granisetron
Đại dịch covid-19 và phương án đáp ứng dưới góc nhìn y học thảm họa.
Tạp chí Y học Thảm hoạ và Bỏng - - 2021
Vào cuối năm 2019, một loại vi rút mới coronavirus 2 (SARS-CoV-2) gây ra hội chứng hô hấp cấp tính nghiêm trọng đã lan rộng ra toàn cầu từ Vũ Hán, Trung Quốc.Vào tháng 3 năm 2020, Tổ chức Y tế Thế giới tuyên bố virus SARS-CoV-2 là một đại dịch toàn cầu. Mặc dù chỉ khi đại dịch kết thúc, người ta mới có thể đánh giá đầy đủ tác động về sức khỏe, xã hội và kinh tế của thảm họa toàn cầu này.Trong phạm vị bài viết này, chúng tôi trình bày một bức tranh về hiện trạng của đại dịch toàn cầu này dưới góc độ y học thảm họa.
#Covid-19 #đại dịch #đáp ứng thảm họa
Đặc điểm thu dung, kết quả điều trị bệnh nhân bỏng trong 2 năm phòng chống dịch Covid-19
Mục tiêu: Đánh giá một số đặc điểm dịch tễ, kết quả điều trị của bệnh nhân bị bỏng điều trị tại Bệnh viện Bỏng quốc gia Lê Hữu Trác trong 2 năm phòng chống dịch bệnh Covid-19 (2020 - 2021).Đối tượng và phương pháp: Nghiên cứu hồi cứu trên 10.050 bệnh nhân bỏng điều trị trong 4 năm (2018 - 2021) tại Bệnh viện Bỏng Quốc gia. Bệnh nhân được chia làm hai nhóm trước (2018-2019) và trong thời gian dịch bệnh Covid-19 (2020-2021) để so sánh.Kết quả: Bệnh nhân thu dung giảm (64,6% so giai đoạn trước dịch); lứa tuổi < 16 giảm, chiếm 37,7%; đối tượng có bảo hiểm y tế (BHYT) tăng, chiếm 87,1%; tỷ lệ nhập viện trong 24 giờ sau bỏng giảm mạnh (54,1% so với 87,4%, p < 0,001); không tăng nhiều vào tháng 6, 7, 8; bệnh nhân bỏng điện tăng cả về số và tỷ lệ (657 chiếm 16,7% so với 645 chiếm 10,6%, p < 0,05); diện tích bỏng là 9% diện tích cơ thể (DTCT) (3 - 18%) so với 7% DTCTC (3 - 15%) , p < 0,001), bỏng sâu là 3 (1 - 8) so với 2 (1 - 7) % DTCT, p < 0,01.Trong giai đoạn dịch Covid-19, ngày điều trị trung bình là 16 (10 - 29) ngày. Tỷ lệ tử vong là 3,3% (so với giai đoạn trước là 3,4%, p > 0,05). Ngày nằm viện của bệnh nhân tử vong là 11 (2 - 24) ngày so với 7 (2 - 14) ngày ở giai đoạn trước, p < 0,01. LA50 là 74% DTCT (so với 63% DTCT ở giai đoạn trước), bỏng sâu là 44% DTCT (so với 35%DTCT). Bỏng hô hấp có tỷ lệ tử vong là 39,6% (so với giai đoạn trước là 57,5%, p = 0,002).Kết luận: Trong khoảng thời gian dịch Covid-19 xẩy ra, bệnh nhân nhập viện điều trị giảm, tỷ lệ bỏng nặng cao hơn. Mặc dù tỷ lệ tử vong không đổi, các chỉ số chỉ ra chất lượng điều trị tốt hơn có thể do có nhiều điều kiện thuận lợi cho điều trị như mật độ bệnh nhân giảm, tập trung được nguồn lực.
#Dịch tễ #kết quả điều trị #bệnh nhân bỏng #dịch bệnh Covid-19
Tổng số: 220
- 1
- 2
- 3
- 4
- 5
- 6
- 10