Tạp chí Phụ Sản

Công bố khoa học tiêu biểu

* Dữ liệu chỉ mang tính chất tham khảo

Sắp xếp:  
Đánh giá các trường hợp thai phụ ra nước ối sớm ở tuổi thai từ 16 đến 34 tuần điều trị tại Bệnh viện Phụ sản Trung ương
Tạp chí Phụ Sản - Tập 20 Số 1 - Trang 19-25 - 2022
Trần Danh Cường, Phạm Quang Vũ, Trần Việt Hòa, Nguyễn Hải Long
Mục tiêu: Mô tả, đánh giá các yếu tố liên quan tới kết quả điều trị của các thai phụ ra ối sớm ở tuổi thai 16- 34 tuần tại Bệnh viện Phụ sản Trung ương. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả cắt ngang, theo dõi 125 thai phụ được chẩn đoán và điều trị ra ối sớm ở tuổi thai 16- 34 tuần, so sánh đánh giá các yếu tố liên quan tới kết quả thai kì của những trường hợp này. Kết quả: Nhóm thai phụ có tuổi thai 23 - 28 tuần thường gặp tình trạng ra ối sớm. Tỷ lệ giữ thai > 1 tuần là 30,4%, giữ thai tới khi đủ tháng là 3,2%. Nếu duy trì được thai kì tới 28 - 32 tuần thì nguy cơ tử vong giảm 141,66 lần so với nhóm tuổi thai từ 16- 22 tuần (OR=141,66, 95% CI : 16,029 – 1252,061). Khi chỉ số ối (AFI) của thai phụ giảm dưới 50mm thì nguy cơ phải lấy thai trong vòng 48h tăng lên 6,29 lần (OR=6.29, 95% CI: 2,41- 16,29 ) và nguy cơ tử vong sơ sinh tăng lên 4,89 lần (OR= 4,89, 95% CI: 1,69 – 14,11) so với nhóm thai phụ có chỉ số ối bình thường. Khi thai phụ có biểu hiện nhiễm trùng kèm theo ra ối sớm thì nguy cơ nhiễm khuẩn sơ sinh tăng lên 2,53 lần (OR = 2,53, 95% CI : 1,12- 5,67). Thai phụ được sử dụng corticoid đủ liều sẽ cải thiện tình trạng sơ sinh , giảm nguy cơ tử vong trẻ 12,04 lần ( OR= 12,04, 95% CI 4,93 – 29,41). Kết luận: Ra ối sớm không phụ thuộc vào tuổi mẹ, nghề nghiệp, địa dư nhưng có liên quan tới tiền sử viêm nhiễm phụ khoa. Các triệu chứng ra nước ối, màu sắc nước ối, sốt trên lâm sàng và các xét nghiệm cận lâm sàng như bạch cầu, CRP, theo dõi chỉ số ối (AFI) trên siêu âm có ý nghĩa trong việc theo dõi, điều trị và tiên lượng các biến cố thai kì.
#ra ối sớm #chỉ số ối (AFI) #nhiễm trùng #kết quả thai nghén
Chẩn đoán khe hở môi của thai bằng siêu âm
Tạp chí Phụ Sản - Tập 12 Số 2 - Trang 142-145 - 2014
Trần Danh Cường, Vũ Bá Quyết, Nguyễn Văn Học
Nghiên cứu này nhằm đích: mô tả kết quả siêu âm chẩn đoán trước sinh các khe hở môi và vòm họng tại bệnh viện Phụ Sản trung ương. Kết quả cho thấy: 98 thai phụ được chọn để nghiên cứu, có tuổi thai phụ trung bình là 27 tuổi, tuổi thai trung bình phát hiện bệnh là 22 tuần. Tỷ lệ khe ở môi ở thai trai cao gấp 2 lần thai gái, tỷ lệ khe hở môi bên trái cao gấp 3 lần bên phải, tỷ lệ khe hở môi một bên là 72,4%, tỷ lệ khe hở môi đơn độc (không kèm theo dị dạng khác) là 82,6%, tỷ lệ khe hở môi có dị tất khác kèm theo là 27,6% trong đó dị tật tim chiểm 35,3%, dị tật ở não chiếm 15%. Kết luận: khe hở môi và vòm miệng là hoàn toàn có thể chẩn đoán trước sinh bằng phương pháp siêu âm hình thái thai nhi vào tuổi thai 22 tuần, đa số là đơn độc cho nên nó có ý nghĩa rất lớn trong thái độ xử trí thai nghén.
#khe hở môi vòm họng #siêu âm hình thái #dị tật tim
Tỷ lệ bất thường dung nạp đường ở phụ nữ hiếm muộn người Việt Nam có hội chứng buồng trứng đa nang:
Tạp chí Phụ Sản - Tập 20 Số 2 - Trang 63-69 - 2023
Hồ Mạnh Tường, Phạm Dương Toàn, Nguyễn Thành Nam, Nguyễn Hoàng Nhất Minh, Hồ Ngọc Anh Vũ, Vương Thị Ngọc Lan, Lý Đại Lương
Mục tiêu: Khảo sát tỷ lệ bất thường dung nạp đường (IGT) và xác định các yếu tố liên quan với tình trạng IGT ở nhóm phụ nữ hiếm muộn người Việt Nam có hội chứng buồng trứng đa nang (HC BTĐN). Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Phụ nữ hiếm muộn người Việt Nam có HC BTĐN chẩn đoán theo tiêu chuẩn Rotterdam được nhận vào nghiên cứu. Bệnh nhân được khai thác tiền sử, bệnh sử, khảo sát nhân trắc học, siêu âm phụ khoa, xét nghiệm nội tiết, đường huyết đói (FG) và HbA1c. Nếu FG < 125 mg/dL và HbA1c < 6,5%, bệnh nhân được thực hiện xét nghiệm dung nạp glucose đường uống với 75g đường (OGTT). Kết cục chính là tỷ lệ IGT. Dữ liệu được phân tích sử dụng phương pháp thống kê mô tả và mô hình hồi quy logistic đơn, đa biến. Kết quả: Có 903 phụ nữ có HC BTĐN tham gia nghiên cứu từ 6/2020 đến 6/2021. Đa số trẻ tuổi, không thừa cân. 22,6% được chẩn đoán IGT; 3,7% và 5,2% có đái tháo đường (ĐTĐ) típ 2 chẩn đoán bằng FG/HbA1c và OGTT; 68,5% có chuyển hoá đường bình thường. Tình trạng tiền ĐTĐ được phát hiện ở 29,6% bệnh nhân. Tuổi và BMI là hai yếu tố liên quan độc lập của tình trạng IGT sau phân tích hồi quy đa biến. Kết luận: Tỷ lệ IGT và các rối loạn chuyển hoá khác liên quan đường huyết ở phụ nữ hiếm muộn người Việt Nam có HC BTĐN cao, mặc dù cơ địa thừa cân - béo phì là không phổ biến.
#bất thường dung nạp đường #hội chứng buồng trứng đa nang #hiếm muộn
Nghiên cứu mối liên quan giữa đặc điểm giải phẫu tinh hoàn với các thông số tinh dịch đồ ở bệnh nhân vô sinh nam
Tạp chí Phụ Sản - Tập 10 Số 3 - Trang 215-224 - 2012
Phạm Chí Kông, Cao Ngọc Thành, Lê Minh Tâm
Mục tiêu: Nghiên cứu mối liên quan giữa đặc điểm giải phẫu tinh hoàn với các thông số tinh dịch đồ ở bệnh nhân vô sinh. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Gồm 162 bệnh nhân vô sinh nam đến khám tại Trung tâm Nội tiết Phụ khoa và Y học sinh sản, Trường Đại học Y Dược Huế có kết quả tinh dịch đồ bất thường theo tiêu chuẩn của Tổ chức Y tế Thế giới (1999) từ 06/2009-06/2011. Kết quả: Thể tích trung bình tinh hoàn đo bằng thước Prader và siêu âm lần lượt là 10,9±8,0 ml và 9,4±8,0 cm3. Thể tích tinh hoàn ở các bệnh nhân bị giãn tĩnh mạch thừng tinh (6,6±5,1cm3) nhỏ hơn một cách đáng kể so với các bệnh nhân không có giãn tĩnh mạch thừng tinh (11,0±8,9cm3, p≤0,001). Trong các bất thường ở bìu được phát hiện qua siêu âm, giãn tĩnh mạch thừng tinh chiếm tỉ lệ cao nhất: 36,4%. Có sự tương quan thuận giữa một số thông số tinh dịch đồ với thể tích tinh hoàn. Ở điểm cắt 9,9749cm3, diện tích dưới đường cong bằng 0,839, p<0,0001, thể tích tinh hoàn cho độ nhạy và độ đặc hiệu tối ưu trong chẩn đoán phân biệt mật độ tinh trùng ít và bình thường (94,9% và 85,7%). Các bệnh nhân bị giãn tĩnh mạch thừng tinh có chất lượng tinh dịch đồ thấp hơn so với các trường hợp không bị dãn tĩnh mạch thừng tinh (p<0,05). Kết luận: Giãn tĩnh mạch thừng tinh chiếm tỉ lệ cao nhất trong các bất thường ở bìu được phát hiện qua siêu âm. Thể tích tinh hoàn ở các bệnh nhân bị giãn tĩnh mạch thừng tinh nhỏ hơn một cách đáng kể so với các bệnh nhân không có giãn tĩnh mạch thừng tinh. Có sự tương quan thuận giữa các thông số tinh dịch đồ với thể tích tinh hoàn. Các bệnh nhân bị giãn tĩnh mạch thừng tinh có chất lượng tinh dịch đồ thấp hơn so với các trường hợp không bị dãn tĩnh mạch thừng tinh.
Đánh giá hiệu quả của phương pháp tập thể dục sớm sau mổ lấy thai
Tạp chí Phụ Sản - Tập 18 Số 4 - Trang 28-32 - 2021
Trương Thị Ánh Tuyết, Vũ Thị Nhung
Đặt vấn đề: Tỉ lệ mổ lấy thai ngày càng tăng trên thế giới cũng như ở Việt Nam. Đau và liệt ruột cơ năng thường gặp sau mổ lấy thai. Trong liệu pháp không dùng thuốc để giảm đau và phục hồi nhu động ruột sau mổ thì vận động sớm ngày càng được quan tâm. Tuy nhiên, chưa có nhiều nghiên cứu đánh giá hiệu quả của phương pháp vận động này trên sản phụ sau mổ. Mục tiêu nghiên cứu: Đánh giá hiệu quả của phương pháp tập thể dục sớm sau mổ lấy thai tại Bệnh viện Hùng Vương.   Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Thử nghiệm lâm sàng ngẫu nhiên, có đối chứng, thực hiện tại khoa Hậu sản, Bệnh Viện Hùng Vương từ tháng 10/2018 đến tháng 03/2019.  Kết quả: Tỷ lệ sản phụ có điểm đau VAS (thang điểm cường độ đau dạng nhìn đồng dạng - Visual Analog Scale) ≤ 3 hậu phẫu ngày 1 ở nhóm có tập bài tập thể dục sớm là 63,2%, cao hơn có ý nghĩa thống kê so với nhóm tự vận động (23,7%), OR = 5,524 (KTC 95%: 2,730 - 11,178), p < 0,001. Tỉ lệ phục hồi nhu động ruột sớm (trung tiện sớm < 36 giờ) sau mổ lấy thai ở nhóm có tập bài tập thể dục sớm là 76,3%, cao hơn có ý nghĩa so với nhóm tự vận động (43,4%), sự khác biệt có ý nghĩa thống kê, p < 0,05.  Kết luận: Phương pháp tập thể dục sớm mang lại hiệu quả giảm đau và phục hồi nhu động ruột sớm cho các sản phụ sau mổ lấy thai.
#Vận động sớm #bài tập thể dục sau mổ lấy thai #phục hồi sau mổ lấy thai
Đặc điểm dịch tễ và tâm lý xã hội ở phụ nữ nhiễm HIV trầm cảm sau sinh
Tạp chí Phụ Sản - Tập 12 Số 3 - Trang 58-63 - 2014
Cao Ngọc Thành, Nguyễn Mạnh Hoan
Trầm cảm sau sinh (TCSS) không phổ biến ở phụ nữ bình thường nhưng lại chiếm tỉ lệ cao ở phụ nữ nhiễm HIV (H) và đã được xác định là một yếu tố dự báo mạnh mẽ không tuân thủ ART và liên quan đến khó khăn trong việc chăm sóc con. Tại Việt Nam có nhiều nghiên cứu về TCSS ở phụ nữ nhưng chưa có báo cáo về TCSS ở phụ nữ nhiễm H. Mục tiêu: Xác định tỉ lệ TCSS ở các phụ nữ nhiễm H và đánh giá một số đặc điểm dịch tễ, tâm lý xã hội của họ so với các phụ nữ không nhiễm H. Phương pháp: Nghiên cứu thuần tập theo chiều dọc thực hiện tại Đồng Nai và Bình Dương từ 30/11/2012 đến 30/3/2014. Tất cả 135 phụ nữ nhiễm H và 405 phụ nữ không nhiễm H (tỉ lệ 1: 3) đồng ý tham gia đã được sàng lọc TCSS bằng cách sử dụng thang Edinburgh (EPDS) từ khi nhập viện sinh đến 1 và 6 tuần sau khi sinh. TCSS được đánh giá ở tất cả các lần, các EPDS có điểm cắt ≥ 13 được sử dụng để xác định trầm cảm có thể xảy ra. Mẫu có EPDS ≥ 13 ở thời điểm nhập viện được loại khỏi nghiên cứu. Phiếu thu thập số liệu được sử dụng để thu thập các đặc điểm của tất cả các mẫu nghiên cứu. Kết quả: Có 403 sản phụ không nhiễm H và 109 sản phụ nhiễm H đủ tiêu chuẩn tiếp tục nghiên cứu. Tỉ lệ mất dấu tại thời điểm 6 tuần sau sinh tương đương ở 2 nhóm (nhiễm 10,1% và không nhiễm 11,6%). Tỉ lệ TCSS tại thời điểm 6 tuần ở nhóm nhiễm H là 61% so với tỉ lệ 8,7% ở nhóm không nhiễm (p < 0,001). Có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê (p < 0,05) giữa 2 nhóm ở một số đặc điểm: trình độ học vấn, tình trạng thất nghiệp, thu nhập, sử dụng chất gây nghiện, tiền căn tâm thần, hôn nhân gia đình, bú mẹ và chăm sóc con. Kết luận: Có nhiều khác biệt trong các đặc điểm dịch tễ và tâm lý xã hội ở 2 nhóm phụ nữ. Tỉ lệ có triệu chứng TCSS ở phụ nữ nhiễm H cao gấp 7 lần ở phụ nữ không nhiễm H.
Tuổi mãn kinh và những nhu cầu cải thiện quanh tuổi mãn kinh của phụ nữ thành phố hải phòng
Tạp chí Phụ Sản - Tập 11 Số 4 - Trang 40 - 44 - 2013
Vũ Thanh Hương, Lê Thanh Bình, Nguyễn Thu Trang
Dựa theo chỉ số mãn kinh của Kupperman (có chỉnh sửa), các tác giả phỏng vấn 265 phụ nữ đã mãn kinh ở cả nội / ngoại thành Hải phòng. Bằng phương pháp nghiên cứu ngang mô tả, các số liệu đã được thống kê phân tích và so sánh (t-test và test χ² ) với SPSS 16.0. Các tác giả nhận thấy: Tuổi mãn kinh trung bình của phụ nữ tp Hải Phòng = 49,26 ± 3,53. Triệu chứng toàn thân nổi bật quanh mãn kinh và mức độ nặng nhẹ: đau nhức cơ xương khớp 90,6% với 2,02 ± 1 điểm; rối loạn kinh nguyệt 84.9% với 1,42 ± 0,88 điểm; đau đầu giảm trí nhớ 81,5% với 1,53 ± 1 điềm; rối loạn giấc ngủ 81,1% với 1,58 ± 1,01 điểm. Rối loạn tình dục: khô âm đạo 92.1% với 2 ± 0,95 điểm; giảm ham muốn 91,7% với 1,95 ± 0,93 điểm; khó đạt khoái cảm 89.1% với 1,96 ± 0,98 điểm. Trong nhiều triệu chứng gây khó chịu quanh tuổi mãn kinh, số phụ nữ mong muốn cải thiện tình trạng khô rát âm đạo có tỉ lệ cao nhất 45.7%, đau nhức xương khớp 38,2% và nhu cầu làm đẹp làn da 36,2%.
Tỉ lệ và đặc điểm khuyết sẹo mổ lấy thai ở phụ nữ hiếm muộn có tiền căn mổ lấy thai đến khám tại Bệnh viện Mỹ Đức
Tạp chí Phụ Sản - Tập 19 Số 2 - Trang 27-33 - 2021
La Văn Minh Tiến, Vương Thị Ngọc Lan, Lý Thiện Trung, Hồ Ngọc Anh Vũ
Giới thiệu: Hiệp hội Siêu âm sản phụ khoa quốc tế đã đưa ra đồng thuận trong chẩn đoán và mô tả cụ thể các đặc điểm hình thái của khuyết sẹo mổ lấy thai vào năm 2019. Khuyết sẹo mổ lấy thai cũng được ghi nhận là một nguyên nhân của hiếm muộn thứ phát. Chưa có nghiên cứu ghi nhận tỉ lệ và đặc điểm thái của khuyết sẹo mổ lấy thai ở phụ nữ hiếm muộn có tiền căn mổ lấy thai với tiêu chuẩn chẩn đoán rõ ràng. Mục tiêu nghiên cứu: Xác định tỉ lệ, đặc điểm hình thái của khuyết sẹo mổ lấy thai và các yếu tố liên quan đến khuyết sẹo mổ lấy thai ở phụ nữ hiếm muộn có tiền căn mổ lấy thai. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu cắt ngang toàn bộ những phụ nữ có tiền căn mổ lấy thai đến khám hiếm muộn tại Đơn vị Hỗ trợ sinh sản – Bệnh viện Mỹ Đức, thành phố Hồ Chí Minh từ 10/2020 đến 03/2021. Phỏng vấn đối tượng tham gia nghiên cứu bằng bảng câu hỏi. Siêu âm đầu dò âm đạo đánh giá khuyết sẹo mổ lấy thai được thực hiện thường qui theo Hướng dẫn của Hiệp hội Siêu âm sản phụ khoa quốc tế. Hồi qui logistic được sử dụng để đánh giá các yếu tố liên quan đến khuyết sẹo mổ lấy thai. Kết quả: Có 340 phụ nữ được nhận vào nghiên cứu. 125 phụ nữ có khuyết sẹo (36,8%). Khuyết đơn giản chiếm 89,6%, khuyết đơn giản với 1 nhánh phụ là 8,8%, và khuyết phức tạp là 1,6%. Chiều sâu, độ dày cơ tử cung còn lại, và độ dày cơ tử cung cạnh sẹo lần lượt là 4,5 [3,0 – 6,1] mm, 4,0 [3,0 – 5,2] mm và 9,1 [8,0 – 11,2] mm. Yếu tố liên quan đến khuyết sẹo: tử cung ngã sau (PR* = 2,44; KTC 95% = 1,51 – 3,96; p* < 0,001) và thời gian từ lúc mổ lấy thai đến khi khám hiếm muộn ≥120 tháng (PR* = 3,20, KTC 95% = 1,16 – 8,83; p* = 0,025). Kết luận: Khuyết sẹo mổ lấy thai khá phổ biến ở phụ nữ hiếm muộn có tiền căn mổ lấy thai. Khuyết sẹo hầu hết thuộc loại đơn giản. Tử cung ngã sau và thời gian từ lúc mổ lấy thai đến khi khám hiếm muộn dài có liên quan đến khả năng cao phát hiện khuyết sẹo mổ lấy thai.
#khuyết sẹo mổ lấy thai #hiếm muộn #tiền căn mổ lấy thai
Tiếp cận chẩn đoán trước sinh bất thường hệ xương thai nhi: nhân một trường hợp hội chứng Ellis - van Creveld
Tạp chí Phụ Sản - Tập 16 Số 4 - Trang 139 – 142 - 2019
Trần Nhật Thăng, Võ Tá Sơn
Ellis-van Creveld syndrome (chondroectodermal dysplasia) is a rare autosomal recessive disorder characterized by a narrow thorax with short ribs, short extremities with polydactyly, and heart defects. A 29-year-old woman, gravida 2, para 1, was referred for ultrasound level 2 at 33 gestational weeks because of suspected fetal skeletal dysplasia. Prenatal ultrasound revealed shortening of all the long bones, bilateral postaxial polydactyly, a narrow thorax, primum atrial septal defect, persistent left super vena cava and hypospadias. Due to a chest-to-abdominal circumference ratio G(p.Ser253Ter) and NM_153717.2(EVC):c.2376del(p.Tyr793IlefsTer20). This genetic finding confirmed the clinical diagnosis of Ellis-van Creveld syndrome. In conclusion, prenatal sonographic identification of atrial septal defect in association with shortening of the long bones should alert clinicians to the possibility of EVC syndrome and prompt a careful research of polydactyly of the hands. These novel mutations of the EVC gene warrant further analysis in this family for an appropriate genetic counseling.
Tổng số: 975   
  • 1
  • 2
  • 3
  • 4
  • 5
  • 6
  • 10