Tạp chí Dầu khí
Công bố khoa học tiêu biểu
* Dữ liệu chỉ mang tính chất tham khảo
Sắp xếp:
Tổng hợp một số chất lỏng ion dạng bisunfat ứng dụng để tách lưu huỳnh trong dầu diesel
Các chất lỏng ion (IL) n-butyl metyl imidazol hydrosunfat ([BMIM][HSO4]) và n-butyl pyridin hydrosunfat ([BPy][ HSO4]) đã được tổng hợp và sử dụng làm dung môi cho quá trình chiết các hợp chất lưu huỳnh trong dầu diesel thương phẩm. Chất lỏng ion n-butyl metyl imidazol hydrosunfat có khả năng chiết lưu huỳnh cao hơn một chút so với chất lỏng ion n-butyl pyridin dihydrosunfat. Hiệu suất chiết lưu huỳnh đạt 98,5% và 96% tương ứng sau 6 lần chiết (tỷ lệ IL/dầu = 1:1, 25°C). Quá trình được thực hiện ở nhiệt độ và áp suất thường, không cần sử dụng hydro. Sau khi tái sinh bằng cách chiết với dung môi thích hợp, chất lỏng ion được sử dụng lại, khả năng chiết của chất lỏng ion giảm không đáng kể.
Xây dựng cơ sở dữ liệu và phần mềm quản lý hoạt động đầu tư tại các dự án thăm dò, khai thác dầu khí ở nước ngoài
Phần mềm quản lý hoạt động đầu tư tại các dự án thăm dò, khai thác dầu khí ở nước ngoài giúp nâng cao hiệu quả công tác quản lý, giám sát và điều hành các dự án dầu khí ở nước ngoài của Tập đoàn Dầu khí Việt Nam (PVN). Ngoài các thông tin chung về dự án, phần mềm cập nhật tình hình hoạt động của dự án theo các giai đoạn: tìm kiếm thăm dò (khảo sát địa chấn 2D/3D, khoan), phát triển khai thác, trữ lượng, sản lượng, chương trình công tác và ngân sách, chi phí... Việc số hóa các thông tin sẽ giúp người dùng quản lý dữ liệu một cách khoa học, đảm bảo tính bảo mật, chính xác, giúp rút ngắn thời gian tìm kiếm, tra cứu thông tin.
#Database #software #petroleum project
Oligocene combination/stratigraphic traps and their reservoir quality in Cuu Long basin, offshore Vietnam
Cuu Long basin is a Cenozoic rift basin located in the Southeastern shelf of Vietnam with high potential of oil and gas. Up to date, most production in the Cuu Long basin is contributed from structural traps, making them more and more depleted after years of exploitation. Exploration activities in the Cuu Long basin, therefore, are shifting towards nonstructural traps including stratigraphic and/or combination ones.
By integrating exploration methods such as seismic sequence stratigraphy and seismic attribute interpretation, petrophysical and petrographical analysis, this article discusses the assessments of combination/stratigraphic trap types within the Oligocene section in the Cuu Long basin, including (i) identification of several trapping mechanisms and (ii) some evaluations of the trap’s reservoir quality utilising the database of some 2D/3D seismic sections, several wells and unpublished reports. The research results show that the key forming factor for primary stratigraphic traps of sand body is lithology change and the one for pinch-out stratigraphic traps is tapering off of sand layers landward or toward the horsts. The reservoir quality of these traps ranges from moderate to good. Further detailed studies on reservoir distribution and sealing capacity of these trap types, however, need to be carried out to fully evaluate hydrocarbon potential of these stratigraphic/combination traps, and minimise risks in exploration drilling.
#Stratigraphic trap #trapping mechanism #reservoir quality #Cuu Long basin
Climate change reality and implications for the oil and gas industry
Climate change is now occurring with various influences on the Earth’s system, starting from changes in rain patterns, water systems to sea level and many other extreme weather events. The evidences are clear and the governments of many countries have shown solid commitments in the Paris Agreement adopted at the 21st Conference of Parties (COP21) in 2015. Such natural and regulatory changes mean a lot to the oil and gas industry and require immediate actions. This article shows that moving towards natural gas is the right direction that is already happening; but in a longer term, revaluation of assets and investments in renewable energy will even be more beneficial to oil and gas companies in a low-carbon future.
#Climate change #greenhouse gases #oil and gas companies #renewables #risk management
The Vietnam carbon dioxide storage capacity
Our planet is warmed by a natural greenhouse effect and without this natural greenhouse effect the mean annual temperature on the earth would be about -6°C instead of its present level. Most of the natural greenhouse effect is known to be caused by water vapor and carbon dioxide in the atmosphere. However, water vapor is not classed as an anthropogenic greenhouse gas. Carbon dioxide is released into the atmosphere by the burning of solid waste, wood and wood products, and fossil fuels (oil, natural gas, and coal). As a result of human’s activities, the concentration of CO2 in the atmosphere has risen from a relatively stable level around 275 part per million (ppm) in the pre-industrial era to about 355ppm (1994), and currently continues to rise at a rate of about 1.8ppm per year. According to a study by the United Nations, Vietnam is in the top rank amongst countries hardest suffer by climate change catastrophes.
In 2006, Vietnam had 10 typhoons of which 3 were particularly destructive, resulting in 500 people being killed and 2,900 injured. Sea dykes were broken, 86,000 houses were destroyed, 74,000 roofs were blown away and 3,300 ships sank or were damaged.
In order to restrict global temperature rise due to rising CO2, emissions into the atmosphere, one idea of is to capture such CO2, and store this gas in reservoirs almost completely shut off from the atmosphere in the deeper subsurface. This paper presents an assessment of the theoretical carbon dioxide storage capacity of deep-seated reservoirs in Vietnam’s oil and gas fields.
#Carbon dioxide
Phát triển ngành Dầu khí Việt Nam gắn với an ninh năng lượng - kinh tế trong thời kỳ hội nhập quốc tế
Dầu khí là nguồn tài nguyên không tái tạo đóng vai tr. quan trọng đối với nền kinh tế. Đến giữa thế kỷ XXI, dầu khí được dự báo vẫn giữ vị trí hàng đầu trong cân đối năng lượng sơ cấp ở nhiều nước. Tổng tiêu thụ năng lượng toàn cầu năm 2020 đạt trên 4,1 tỷ tấn dầu và 3.853 tỷ m3 khí [1].
Trong 60 năm xây dựng và phát triển, ngành công nghiệp dầu khí Việt Nam đã có đóng góp quan trọng cho nền kinh tế, đặc biệt là giúp đất nước vượt qua cuộc khủng hoảng về năng lượng, thiếu hụt ngân sách trong thập niên 90 của thế kỷ trước. Tính đến cuối năm 2020, tổng sản lượng khai thác của Việt Nam đạt trên 424 triệu tấn dầu và condensate, trên 160 tỷ m3 khí, có thời điểm đóng góp gần 30% cho ngân sách Nhà nước và 22 - 25% cho GDP. Đặc biệt, việc h.nh thành các khu công nghiệp dầu khí ven biển quan trọng và các công trình dầu khí trên thềm lục địa đã góp phần bảo đảm chủ quyền quốc gia và an ninh quốc phòng.
Nhu cầu dầu khí trong cân đối năng lượng tăng nhanh theo tốc độ phát triển kinh tế xã hội. Dự báo trong tương lai gần Việt Nam không còn tự chủ được nguồn cung và phải nhập khẩu hoàn toàn để đáp ứng nhu cầu năng lượng đất nước. Song song với việc chủ động triển khai các giải pháp cấp bách về kỹ thuật - công nghệ, ngành Dầu khí Việt Nam cần các cơ chế để gia tăng trữ lượng và duy trì sản lượng dầu khí, chuẩn bị các bước tiếp theo để chuyển đổi sang các dạng năng lượng ít phát thải khí nhà kính và năng lượng tái sinh.
#Oil and gas #energy security
Application of deep learning in predicting fracture porosity
Deep learning (DL) neural network analysis is the latest development from the Artifi cial Neural Network (ANN) and it is being used more and more in petroleum engineering. In this study, the way to develop a new DL model for well log analysis was attempted and successfully implemented using well log data from a location in the Cuu Long basin, Vietnam. Three sets of analyses were conducted,ie., the first analysis set with a single hidden layer ANN model, the second analysis set with multiple hidden layer ANN model and the third with a DL neural network model. The DL-predicted porosity for a fractured granite basement reservoir of an oil field in the Cuu Long basin was found in the range from 0.0 to 0.082, showing a good match with the conventionally-calculated values. The final deep learning model consists of 5-input layers of gamma ray (GR), deep resistivity (LLD), sonic (DT), density (RHOB) and neutron porosity (NPHI), having 5 hidden neuron layers with 14 neurons per layer. It is worth noting that the transfer function of the rectified linear unit (ReLU), typical for a deep learning analysis, was implemented to replace the common sigmoidal transfer function, ensuring the successful application of DL model. Last but not least, the problem of vanishing gradient specific for a DL neural network model was also explained in details in this paper.
#Deep Learning (DL) #Artificial Neural Network (ANN) #fracture porosity #well log analysis #fractured granite basement #Cuu Long basin
Tự động phát hiện ăn mòn trên bề mặt đường ống dẫn khí sử dụng trí tuệ nhân tạo
Bài báo trình bày phương pháp phát hiện ăn mòn đường ống dẫn khí bằng cách sử dụng trí tuệ nhân tạo để phân tích các hình ảnh trực quan, gồm 3 bước: tiền xử lý ảnh đầu vào; phân đoạn và trích chọn các đặc trưng biểu đồ tần suất màu và đặc trưng kết cấu; đề xuất sử dụng mô hình Markov ẩn được huấn luyện từ các vector đặc trưng có khả năng tự động phân tích các hình ảnh chụp từ camera và nhận dạng các vùng bị ăn mòn của đường ống dẫn khí. Thử nghiệm ban đầu trên tập dữ liệu hơn 5.000 ảnh chụp các đường ống dẫn khí cho thấy phương pháp đề xuất cho kết quả chính xác trên 90%.
#Corrosion #gas pipeline #hidden Markov model #artificial intelligence
Mô phỏng quá trình lan truyền dầu khí xảy ra sự cố tràn dầu tại khu vực ven biển Hải Phòng
Rất gần di sản thiên nhiên thế giới vịnh Hạ Long và khu dự trữ sinh quyển thế giới Cát Bà, khu vực cửa sông ven biển Hải Phòng là nơi có tính đa dạng sinh học cao với các hệ sinh thái biển nhiệt đới điển hình như: rừng ngập mặn, có biển, hệ sinh vùng triều... Nơi đây cũng có cảng Hải Phòng - cửa ngõ ra biển của các tỉnh phía Bắc và là cảng biển lớn thứ hai ở Việt Nam. Trong những năm gần đây, cùng với sự phát triển kinh tế xã hội của đất nước, sản lượng hàng hod thông qua cảng Hải Phòng hằng năm cũng không ngừng tăng lên. Theo đó là sự tăng lên về mật độ của các phuơng tiện giao thông thuỷ, trong đó có các tàu trở dầu. Nếu xảy ra sự cố tràn dầu do các tàu trở dầu này gây ra chắc chắn sẽ có những tác động rất lớn đến môi trường sinh thái và tài nguyên sinh vật biển của khu vực.
Để đánh giá phạm vi ảnh hưởng của dầu tràn ra khu vực cửa sông Bạch Đằng sau khi xảy ra sự cố tràn dầu, tác giả đã áp dụng mô hình toán học mô phỏng sự lan truyền và biến đổi của vệt dầu trong các trường hợp xảy ra sự cố tràn dầu giả định vào mùa mưa (8/2006) và mùa khô (3/2007). Các kết quả mô phỏng tính toán cho thấy ảnh hưởng do dầu tràn đến khu vực này phụ thuộc nhiều vào các yếu tố như thời gian xảy ra sự cố, vị trí, tính chất loại dầu tràn và đặc điểm điều kiện thời tiết của khu vực. Ở khu vực cửa sông Bạch Đằng, nếu xảy ra sự cố tràn dầu vào thời điểm triều lên sẽ có ảnh hưởng lớn hơn khi xảy ra sự cố vào thời điểm triều xuống.
Bể Nam Côn Sơn dưới góc độ địa động lực
Bài báo điểm qua các đặc điểm trầm tích, hoạt động magma, hệ thống đứt gãy là các bằng chứng về hoạt động địa động lực của bể Nam Côn Sơn, từ đó đưa ra mô hình sinh ra và phát triển của bể theo 5 giai đoạn chính, tạo nên nhiều bất chỉnh hợp khu vực cũng như địa phương. Giai đoạn trước Eocen giữa (50 triệu năm) là giai đoạn phá hủy, san bằng kiến tạo, hình thành và phát triển bán bình nguyên. Giai đoạn tiền tách giãn Eocen trung - muộn (50 - 36 triệu năm) hình thành hệ thống đứt gãy ngang kèm theo các trũng ban đầu. Giai đoạn tách giãn chính Oligocen – Miocen sớm (36 - 15,5 triệu năm) cộng với dịch trượt ngang và vặn xoay là giai đoạn chính phát triển, bể trầm tích càng rộng, bị nhấn chìm sâu hơn. Do dịch trượt xuống phía Đông Nam và xoay phải của khối Đông Dương rất mạnh, đồng thời do xuất hiện dị thường nhiệt thúc đẩy tách giãn hướng Bắc - Nam ở Trung tâm biển Đông và hình thành một loạt đứt gãy ngang. Về sau (từ 26 - 15,5 triệu năm) do thay đổi hướng của dị thường nhiệt kéo theo sự thay đổi hướng của trục tách giãn biển Đông ở phần đuôi Tây Nam tạo điều kiện hình thành hàng loạt đứt gãy hướng Đông Bắc - Tây Nam. Cũng trong thời gian này, đới hút chìm Borneo - Palawan hình thành và phát triển lôi cuốn bể Nam Côn Sơn về phía Đông - Nam. Chính các yếu tố nêu trên dẫn đến cơ chế kéo tách mở rộng của bể Nam Côn Sơn. Giai đoạn nâng và bị nén ép mạnh Miocen trung - muộn (15,5 - 5,2 triệu năm). Do toàn khu vực bị nâng lên và bị nén ép mạnh mà một số nơi bị bào mòn, bóc trụi. Song bên cạnh các đới nâng lại có các kênh rạch, mương máng để nước biển tràn vào các trũng sâu tạo nên trầm tích biển xen kẽ. Giai đoạn sụn lún nhiệt do lạnh nguội và co ngót mạnh dẫn đến tái tách giãn và phát triển thêm toàn khu vực, thay đổi hẳn hướng trục cũng như diện mạo của vùng trên phạm vi rộng lớn của thềm lục địa.
Đến nay, bể Nam Côn Sơn được nhìn nhận dưới nhiều góc độ khác nhau. Để tìm hiểu bể Nam Côn Sơn dưới góc độ địa động lực, cần xem xét các tiền đề sau: địa tầng thạch học, đá magma, hệ thống đứt gãy, xây dựng các mặt cắt qua nhiều góc độ khác nhau, mặt cắt cổ kiến tạo, các sơ đồ cổ kiến tạo nhằm xem xét quá trình hình thành và phát triển của nó.
Tổng số: 933
- 1
- 2
- 3
- 4
- 5
- 6
- 10