TẠP CHÍ VẬT LIỆU & XÂY DỰNG

Công bố khoa học tiêu biểu

* Dữ liệu chỉ mang tính chất tham khảo

Sắp xếp:  
NGHIÊN CỨU ANH HƯỞNG CỦA PHƯƠNG PHÁP NHIỆT VÀ HÓA HỌC ĐỂ XỬ LÝ VỮA BÁM DÍNH TRÊN CỐT LIỆU TÁI CHẾ DÙNG TRONG BÊ TÔNG
TẠP CHÍ VẬT LIỆU & XÂY DỰNG - Tập 13 Số 06 - 2023
Ninh Thụy Nguyễn, Thị Tuyết Giang Võ, Anh Tuấn Lê
Nghiên cứu này sử dụng cốt liệu tái chế thay thế cho cốt liệu lớn trong bê tông với hàm lượng lần lượt là 25, 50, 75 và 100% theo khối lượng. Nhiệt độ sử dụng thay đổi từ 80, 100, 120 và 1400C. Dung dịch hóa học HCl và  Na2SO4 với nồng độ 0,05 – 0,2 Mol/ lít được dùng để xử lý cốt liệu. Thực nghiệm cho thấy cốt liệu tái chế với kích thước khác nhau thay thế trong hỗn hợp bê tông làm giảm độ linh động và cường độ bê tông. Nhóm cốt liệu kích thước 5 – 10 mm làm giảm tính chất của hỗn hợp bê tông rõ rệt hơn so với cốt liệu có kích thước 10 – 20 mm. Sử dụng nhiệt độ từ 80 đến 1400C có tác dụng làm giảm hàm lượng vữa bám dính trên cốt liệu tái chế 4 – 5% tùy theo nhóm cốt liệu. Hỗn hợp bê tông có xu hướng cải thiện độ linh động và cường độ khi dùng nhiệt độ đến 1400C cho cốt liệu 10 – 20 mm. Sử dụng dung dịch hóa học có xu hướng giảm hàm lượng vữa bám dính trên cốt liệu 15 – 20% khi nồng độ dung dịch 0,1 – 0,2 Mol/lít tùy theo nhóm cốt liệu. Cường độ bê tông cải thiện đến 15 – 20% với nhóm 5-10 mm và cải thiện đến 30% với nhóm 10-20 mm. Dung dịch HCl có tác dụng rõ rệt trong việc cải thiện tính chất của cốt liệu tái chế dùng trong bê tông
#Độ sụt #Dung dịch hóa học #Cường độ #Cốt liệu tái chế #Nhiệt độ
NGHIÊN CỨU ẢNH HƯỞNG CỦA CỐT LIỆU TRO BAY NHÂN TẠO THAY THẾ MỘT PHẦN CÁT SÔNG ĐẾN KHỐI LƯỢNG THỂ TÍCH VÀ CƯỜNG ĐỘ CHỊU NÉN CỦA BÊ TÔNG
TẠP CHÍ VẬT LIỆU & XÂY DỰNG - Tập 13 Số 06 - 2023
Nhan Le, Phương Trinh Bùi, An Duong, Nguyễn Hoàng Ngân Anh, Bao, Thach
Mục đích của nghiên cứu này tập trung chế tạo cốt liệu mịn từ tro bay (FAA) và khảo sát ảnh hưởng của FAA thay thế một phần cát sông đến độ sụt của hỗn hợp bê tông, khối lượng thể tích và cường độ chịu nén của bê tông. Thông qua quá trình ve viên hạt, FAA với kích thước từ 1,25 đến 5 mm được chế tạo từ 85% tro bay, 15% xi măng Portland, tỷ lệ nước/chất kết dính bằng 0,21 và được dưỡng hộ 1 ngày trong không khí và ngâm 13 ngày trong nước. Dựa trên kết quả thành phần hạt của hỗn hợp cốt liệu mịn (bao gồm FAA và cát sông), nhận thấy rằng hỗn hợp A (30% FAA và 70% cát sông) và B (40% FAA và 60% cát sông) tối ưu nhất vì nằm trong vùng phạm vi cho phép của cốt liệu mịn cỡ hạt thô theo TCVN 7570:2006. Với việc sử dụng hỗn hợp cốt liệu mịn tối ưu này, độ sụt của hỗn hợp bê tông tăng khi hàm lượng FAA thay thế tăng; trong khi đó, khối lượng thể tích và cường độ chịu nén của bê tông không thay đổi đáng kể. Kết luận rằng FAA có thể thay thế 40% cát sông trong sản xuất bê tông nhằm hạn chế việc khai thác cát sông và tận dụng tối đa lượng tro bay thải ra từ nhà máy nhiệt điện, hướng đến sự phát triển bền vững của nền công nghiệp bê tông.
#Cát sông #Tro bay #Cốt liệu mịn nhân tạo #Cường độ chịu nén #Khối thể tích
Nghiên cứu các yếu tố ảnh hưởng đến công tác lựa chọn nhà thầu thi công xây dựng công trình thủy lợi tỉnh Bến Tre
TẠP CHÍ VẬT LIỆU & XÂY DỰNG - Tập 13 Số 06 - 2023
Khoa Lê Minh, Tâm Nguyễn Thanh
Mục tiêu của nghiên cứu là phân tích và đánh giá các yếu tố ảnh hưởng đến công tác lựa chọn nhà thầu thi công xây dựng công trình thủy lợi trên địa bàn tỉnh Bến Tre. Để đạt được mục tiêu trên, các bước được thực hiện: Thu thập và thống kê số liệu nhằm xác định sơ bộ các yếu tố có khả năng ảnh hưởng; Phỏng vấn chuyên gia để đánh giá sự phù hợp của các yếu tố so với đặc thù công trình thủy lợi tỉnh Bến Tre; Khảo sát chuyên gia để đánh giá về mức độ ảnh hưởng (theo thang Likert); Phân tích định lượng: độ tin cậy Cronbach’s Alpha và nhân tố khám phá EFA. Từ đó, phân tích nhân tố khẳng định CFA để đánh giá chất lượng các yếu tố ảnh hưởng và xác định tính hội tụ, tính phân biệt của thang đo. Kết quả nghiên cứu đã xác định được 29 yếu tố ảnh hưởng thuộc bốn nhóm yếu tố: (i) Nhóm chủ đầu tư/tư vấn đấu thầu; (ii) Nhóm thể chế, chính sách; (iii) Nhóm đặc điểm công trình; (iv) Nhóm nhà thầu thi công, làm cơ sở phân tích, đánh giá cũng như đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao chất lượng công tác lựa chọn nhà thầu thi công xây dựng công trình thủy lợi tỉnh Bến Tre.
#Lựa chọn nhà thầu thi công xây dựng #Đấu thầu #Giải pháp nâng cao chất lượng #Công trình thủy lợi tỉnh Bến Tre
Tối ưu đa mục tiêu giàn thép với biến thiết kế rời rạc sử dụng phân tích trực tiếp
TẠP CHÍ VẬT LIỆU & XÂY DỰNG - Tập 13 Số 01 - Trang Trang 63 - Trang 66 - 2023
Mai Sỹ Hùng
Sự phát triển nhanh chóng của khoa học máy tính đang mở ra nhiều hướng phát triển mới trong khoa học kỹ thuật bao gồm cả thiết kế kết cấu công trình xây dựng như hệ giàn, hệ khung, công trình cầu, v.v. Trong bài báo này, hai vấn đề tiềm năng nhất hiện nay trong thiết kế công trình giàn là phân tích trực tiếp và tối ưu kết cấu được trình bày. Ưu điểm chính của phân tích trực tiếp là các ứng xử phi tuyến của công trình được tính toán và qua đó sức kháng của toàn bộ công trình sẽ được xác định. Tối ưu kết cấu được xét đến là bài toán tối ưu có 2 hàm mục tiêu là khối lượng và chuyển vị của nút chịu điều kiện ràng buộc theo các trạng thái giới hạn khác nhau. Các biến thiết kế được xem xét là diện tích tiết diện các thanh giàn thuộc trong một tập giá trị rời rạc cho trước. Thuật toán tối ưu đa mục tiêu bầy đàn OMOPSO được sử dụng để giải quyết bài toán tối ưu. Bài toán thiết kế tối ưu cầu giàn phẳng gồm 113 thanh được xem xét để minh họa.
#Giàn thép #Tối ưu #PSO #Đa mục tiêu #Phân tích trực ti
Phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến đài cọc bằng phương pháp phần tử hữu hạn
TẠP CHÍ VẬT LIỆU & XÂY DỰNG - Tập 12 Số 04 - Trang Trang 48 - Trang 51 - 2022
Hoàng Công Vũ, Nguyễn Tấn Dũng
Bài báo này phân tích ảnh hưởng của kích thước đài móng (chiều cao, chiều dài, chiều rộng) đối với các thông số áp lực xuống cọc, độ lún của nền đất dưới mũi cọc, nội lực trong đài cọc thông qua việc sử dụng phần mềm Plaxis.
#Móng cọc #Phân tích phần tử hữu hạn
Phân tích ảnh hưởng của áp lực nước đến sự lan truyền vết nứt
TẠP CHÍ VẬT LIỆU & XÂY DỰNG - Số 04 - Trang Trang 61 - Trang 66 - 2021
Nguyễn Quốc Gia Bảo, Nguyễn Võ Trọng, Võ Thị Tuyết Giang
Bài nghiên cứu này nhằm mục đích phân tích một mô hình tính dựa trên cơ sở tổng hợp các kết quả của lý thuyết cơ học rạn nứt và cơ học chất lưu, để nghiên cứu ảnh hưởng của áp lực nước đến sự lan truyền vết nứt. Sự tương quan giữa áp lực nước và sự lan truyền vết nứt cũng như các yếu tố cường độ ứng suất, quỹ đạo vết nứt được trình bày trong kết quả nghiên cứu. Kết quả cho thấy sự phân bố áp lực chất lỏng có thể thúc đẩy sự lan truyền vết nứt hơn nữa và mô hình tính này là một công cụ rất hiệu quả để mô phỏng nứt gãy thủy lực. Ngoài ra, mô hình tính sẽ có ý nghĩa khá lớn trong công tác thiết kế và đánh giá độ ổn định của các công trình bị nứt gãy và chịu tác động của áp lực nước.
#Áp lực nước #Sự lan truyền vết nứt #Mô phỏng nứt gãy thuỷ lực
Phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến sự hợp tác giữa các bên tham gia dự án xây dựng trong giai đoạn thi công
Nguyễn Hồng Vũ, Nguyễn Thanh Việt
Nghiên cứu này phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến sự hợp tác giữa các bên tham gia dự án xây dựng trong giai đoạn thi công. Dựa trên các nghiên cứu trước đây và ý kiến chuyên gia, 20 yếu tố đã được xác định và được nhóm thành 5 nhóm nhân tố chính thông qua kỹ thuật phân tích nhân tố. Bằng cách xếp hạng các yếu tố, nghiên cứu xác định được 3 yếu tố ảnh hưởng nhất đến sự hợp tác giữa các bên tham gia dự án xây dựng trong giai đoạn thi công bao gồm sự tin tưởng giữa các bên tham gia (tin tưởng lẫn nhau hay nghi ngờ lẫn nhau), sự trung thực giữa các bên tham gia (trung thực nhận trách nhiệm hay cố ý che giấu, đổ lỗi trách nhiệm khi xảy ra sự cố, vấn đề), sự hỗ trợ và ủng hộ từ ban quản lý cấp cao trong các công ty/doanh nghiệp của các bên tham gia. Kết quả nghiên cứu hy vọng sẽ giúp các bên tham gia dự án có cái nhìn cụ thể về các yếu tố ảnh hưởng đến sự hợp tác giữa họ trong giai đoạn thi công, từ đó họ sẽ đưa ra các giải pháp, chiến lược thích hợp nhằm duy trì mối quan hệ kinh doanh lâu dài.
#sự hợp tác #sự hợp tác giữa các bên tham gia #giai đoạn thi công #dự án xây dựng
Mô hình động lực học của hệ thu thập năng lượng sử dụng dầm có hai vị trí cân bằng
TẠP CHÍ VẬT LIỆU & XÂY DỰNG - Số 3 - Trang Trang 52 - Trang 55 - 2021
Nguyễn Huy Thế
Trong những năm gần đây, hệ thu thập năng lượng phi tuyến sử dụng dầm đàn hồi có dán vật liệu áp điện và hai nam châm được đặt gần đầu tự do của dầm rất được quan tâm nghiên cứu. Phương pháp phổ biến nhất để mô hình hóa hệ thống này là rời rạc hóa dầm đàn hồi theo không gian với một hàm dạng và giả sử lực đàn hồi do từ trường gây ra có dạng đa thức bậc ba. Hai nam châm được định vị sao cho hệ tồn tại hai vị trí cân bằng ổn định và một vị trí cân bằng không ổn định. Phương pháp mô hình hóa này dẫn đến một phương trình Duffing với hệ số đàn hồi tuyến tính âm và hệ số đàn hồi bậc ba dương. Mặc dù mô hình này có thể mô tả được tính chất lưỡng cực ổn định nêu trên, tính đầy đủ của các giả thuyết chưa được kiểm chứng kỹ lưỡng. Bài báo này trình bày kết quả của các nghiên cứu thực nghiệm về tính đầy đủ của phương trình Duffing mô tả hệ cơ học gồm dầm đàn hồi và nam châm, trong đó dầm không mang vật liệu áp điện với mục đích đơn giản hóa quá trình tính toán. Do đó, một mô hình đã được phát triển để xác định lực đàn hồi bậc ba của hệ. Kết quả tính toán lý thuyết về đáp ứng động lực học của mô hình Duffing với các kích động điều hòa được so sánh với thực nghiệm. Các kết quả nói chung rất phù hợp, tuy nhiên mô hình còn hạn chế như các nghiệm của mô hình dịch đến tần số cao hơn so với thực nghiệm.
#động lực học phi tuyến #thu thập năng lượng #dầm có hai vị trí cân bằng #phương trình Duffing #lực đàn hồi bậc ba
Nghiên cứu phát triển xi măng sinh học có nguồn gốc từ thực vật nhằm giảm phát thải CO2 trong lĩnh vực xây dựng
TẠP CHÍ VẬT LIỆU & XÂY DỰNG - Tập 13 Số 01 - Trang Trang 37 - Trang 46 - 2023
Nguyễn Lê Quốc Anh, Ngô Hữu Hoàng, Hoàng Phương Tùng, Nguyễn Thị Minh Xuân
Nghiên cứu này sử dụng phương pháp tạo kết tủa CaCO3 từ Enzyme Urease (Enzyme Induced Carbonate Precipitation - EICP) để sản xuất xi măng sinh học. Enzyme thô (chi phí thấp, thân thiện với môi trường) được chiết xuất từ hạt đậu nành (soybeans) có hoạt tính Urease cao thích hợp cho sản xuất xi măng sinh học. Hoạt tính của enzyme được xác định đồng thời với sự thay đổi pH và độ dẫn điện của dung dịch khi thủy phân urea (CO(NH2)2). Kỹ thuật EICP dùng để xi măng hóa các mẫu cát hình trụ. Kết tủa tạo ra từ xi măng sinh học có khả năng kết dính các hạt cát lại với nhau vì vậy tăng cường độ của mẫu cát với các giá trị lớn nhất và nhỏ nhất ứng với cường độ nén lần lượt là 1004,2 kPa và 359,9 kPa, đồng thời chèn vào lỗ rỗng giữa các hạt làm giảm tính thấm với độ thấm ban đầu là 10-1 cm/s, Kết tủa CaCO3 được xác định bằng các phân tích vi mô sử dụng kỹ thuật nhiễu xạ tia X và kính hiển vi điện tử. Ngoài ra, nghiên cứu còn đánh giá chi phí và lợi ích môi trường về việc giảm phát thải CO2 so với xi măng Portland thông thường.
#EICP #Hạt đậu nành #Xi măng sinh học #Enzyme Urease #Giảm phát thải CO2
Nghiên cứu áp dụng hệ thống ô ngăn hình mạng Neoweb trong gia cố ổn định trượt sâu mái dốc
TẠP CHÍ VẬT LIỆU & XÂY DỰNG - Tập 13 Số 01 - Trang Trang 47 - Trang 51 - 2023
Nguyễn Quốc Tới, Đặng Thế Vinh
Đất gia cố Neoweb có thể được sử dụng trong nhiều lĩnh vực địa kỹ thuật, tuy nhiên, có rất ít thông tin về phân tích hoạt động của mái dốc gia cố Neoweb. Do chiều cao của Neoweb, tấm đệm được gia cố Neoweb có nhiều khả năng cung cấp hiệu ứng dầm hoặc tấm hơn là hiệu ứng màng phẳng. Mục đích của bài báo này là sử dụng mô hình dầm để mô phỏng hành vi của Neoweb như một tấm nền móng có thể chịu được cả ứng suất uốn và ứng suất màng để phân tích độ ổn định của các mái dốc được gia cố Neoweb. Ngoài ra, sức kháng bề mặt giữa Neoweb-đất đã được xem xét. Mô-đun Young của đất bọc Neoweb thu được từ mô-đun đàn hồi của đất không gia cố và mô-đun kéo của gia cố Neoweb bằng cách sử dụng một phương trình thực nghiệm.
#Neoweb #Ổn định mái dốc #Gia cố mái dốc #Bề mặt phá hoại #Mô hình dầm #Độ cứng uốn Neoweb
Tổng số: 298   
  • 1
  • 2
  • 3
  • 4
  • 5
  • 6
  • 10