Journal of Finance
Công bố khoa học tiêu biểu
* Dữ liệu chỉ mang tính chất tham khảo
Bài báo này ghi nhận rằng các chiến lược mua cổ phiếu đã có hiệu suất tốt trong quá khứ và bán cổ phiếu đã có hiệu suất kém trong quá khứ tạo ra lợi nhuận dương đáng kể trong khoảng thời gian nắm giữ từ 3 đến 12 tháng. Chúng tôi nhận thấy rằng tính lợi nhuận của các chiến lược này không phải do rủi ro hệ thống của chúng hay do các phản ứng giá cổ phiếu chậm trễ đối với các yếu tố chung. Tuy nhiên, một phần lợi nhuận bất thường tạo ra trong năm đầu tiên sau khi hình thành danh mục đầu tư sẽ suy giảm trong hai năm tiếp theo. Một mẫu tương tự về lợi nhuận xung quanh các công bố thu nhập của những cổ phiếu chiến thắng và thất bại trong quá khứ cũng đã được ghi nhận.
There is a large body of literature that concludes that—when confronted with increased competition—banks rationally choose more risky portfolios. We argue that this literature has had a significant influence on regulators and central bankers. We review the empirical literature and conclude that the evidence is best described as “mixed.” We then show that existing theoretical analyses of this topic are fragile, since there exist fundamental risk‐incentive mechanisms that operate in exactly the opposite direction, causing banks to become more risky as their markets become more concentrated. These mechanisms should be essential ingredients of models of bank competition.
Chúng tôi khảo sát giá trị của sự bền vững ngân hàng đối với các công ty vay vốn. Phân tích dựa trên các mô hình lý thuyết về quan điểm dịch vụ tài sản của trung gian tài chính, cho rằng thông tin cá nhân và các hoạt động dựa trên mối quan hệ cụ thể là bản chất của việc cho vay vốn của ngân hàng. Chúng tôi phân tích tác động tới giá cổ phiếu của các công ty có quan hệ vay với Ngân hàng Continental Illinois trong giai đoạn phá sản thực tế và sau khi được FDIC cứu trợ. Chúng tôi nhận thấy sự bất ổn lâm vào phá sản của ngân hàng có ảnh hưởng tiêu cực, trong khi sự cứu trợ của FDIC mang lại tác động tích cực đối với giá cổ phiếu của các công ty khách hàng. Chúng tôi kết luận rằng các nhà vay phải chịu chi phí đáng kể để ứng phó với sự giảm thiểu bền vững ngân hàng không lường trước được và do đó là các cổ đông ngân hàng.
Bài báo này khảo sát nghiên cứu về quản trị doanh nghiệp, đặc biệt chú ý đến tầm quan trọng của việc bảo vệ pháp lý cho nhà đầu tư và sự tập trung sở hữu trong các hệ thống quản trị doanh nghiệp trên toàn thế giới.
This paper develops and empirically tests a two‐factor model for pricing financial and real assets contingent on the price of oil. The factors are the spot price of oil and the instantaneous convenience yield. The parameters of the model are estimated using weekly oil futures contract prices from January 1984 to November 1988, and the model's performance is assessed out of sample by valuing futures contracts over the period November 1988 to May 1989. Finally, the model is applied to determine the present values of one barrel of oil deliverable in one to ten years time.
Oil futures prices are often below spot prices. This phenomenon, known as strong backwardation, is inconsistent with Hotelling's theory under certainty that the net price of an exhaustible resource rises over time at the rate of interest. We introduce uncertainty and characterize oil wells as call options. We show that (1) production occurs only if discounted futures are below spot prices, (2) production is non‐increasing in the riskiness of future prices, and (3) strong backwardation emerges if the riskiness of future prices is sufficiently high. The empirical analysis indicates that U.S. oil production is inversely related and backwardation is directly related to implied volatility.
I show that the effect of option introductions on underlying stock prices is best described by a two‐regime switching means model whose optimal switch date occurs in 1981. In accordance with previous studies, I find positive abnormal returns for options listed during 1973 to 1980. By contrast, I find negative abnormal returns for options listed in 1981 and later. Possible causes for this switch include the introduction of index options in 1982, the implementation of regulatory changes in 1981, and the possibility that options expedite the dissemination of negative information.
We examine how the September 2008 short sale restrictions and the accompanying confusion and regulatory uncertainty impacted equity option markets. We find that the short sale ban is associated with dramatically increased bid‐ask spreads for options on banned stocks. In addition, synthetic share prices for banned stocks become significantly lower than actual share prices during the ban. We find similar results for synthetic share prices of hard‐to‐borrow stocks, suggesting that the dislocation in actual and synthetic share prices is attributable to the increased hedging costs for options on banned stocks during the short sale ban.
This paper presents empirical evidence that trading in options contributes to both transactional and informational efficiency of the stock market by reducing the effect of constraints on short sales. The significantly higher average level of short interest exhibited by optionable stocks supports the argument that options facilitate short selling. We also find significant effects on option prices, related to the short interest in the underlying stock. We then present evidence that options also increase information efficiency. Earlier work, that is replicated and extended here, has suggested that short sale constraints cause stock prices to underweight negative information. Options appear to reduce that effect.
Most regulators around the world reacted to the 2007–09 crisis by imposing bans on short selling. These were imposed and lifted at different dates in different countries, often targeted different sets of stocks, and featured varying degrees of stringency. We exploit this variation in short‐sales regimes to identify their effects on liquidity, price discovery, and stock prices. Using panel and matching techniques, we find that bans (i) were detrimental for liquidity, especially for stocks with small capitalization and no listed options; (ii) slowed price discovery, especially in bear markets, and (iii) failed to support prices, except possibly for U.S. financial stocks.
- 1
- 2
- 3
- 4
- 5
- 6
- 10