Journal of Environmental Health Science and Engineering
SCIE-ISI SCOPUS (2012-2023)
2052-336X
Cơ quản chủ quản: SPRINGER , Springer International Publishing AG
Các bài báo tiêu biểu
Các hạt vật chất có tác động tiêu cực đến sức khỏe con người, môi trường và kinh tế. Chất ô nhiễm này có thể phát sinh từ các nguồn gốc nhân tạo hoặc tự nhiên. Trên quy mô toàn cầu, phần lớn lượng vật chất hạt tự nhiên phát tán vào khí quyển do xói mòn đất gió từ các khu vực khô hạn và bán khô hạn. Gần đây, lượng bụi từ các nước Ả Rập đã tăng mạnh, đặc biệt là các cơn bão bụi ảnh hưởng đến các khu vực phía tây và thậm chí là trung tâm Iran. Hiện tượng này đã gây ra nhiều vấn đề môi trường. Xác định nguồn gốc bụi và mô phỏng quỹ đạo bằng các kỹ thuật số là những mục tiêu chính của nghiên cứu này. Mô hình HYSPLIT (Mô hình quỹ đạo tích hợp Lagrangian cho một hạt) và mô-đun bụi được sử dụng trong nghiên cứu này và hai nghiên cứu điển hình được điều tra (vào tháng 5 và tháng 6 năm 2010). Cơ sở của mô-đun bụi HYSPLIT là thuật toán phát thải bão bụi PM10 cho đất sa mạc. Phương pháp này được áp dụng để ước tính các điểm nóng và các quỹ đạo. Theo các kết quả, các cơn bão bụi bắt đầu vào ngày 17 tháng 5 và 7 tháng 6 do sự cắt gió cao (>8,5 m/s) từ sa mạc Syria phía tây. Khu vực nguồn bị giới hạn trong tọa độ từ 32.50 °N đến 33.80 °N và 38.00 °E đến 38.80 °E. Các luồng bụi đã được nâng lên và phân tán về phía đông và đông nam từ nguồn gốc và đã đến Ahvaz vào ngày 18 tháng 5 và 8 tháng 6. Nồng độ trung bình PM10 vào những ngày này đạt lần lượt 625 và 494
Trong nghiên cứu này, việc loại bỏ chất hữu cơ tự nhiên từ dung dịch nước bằng cách sử dụng các quá trình oxi hóa nâng cao (UV/H2O2) đã được đánh giá. Do đó, phương pháp bề mặt phản ứng và ma trận thiết kế Box-Behnken đã được áp dụng để thiết kế thí nghiệm và xác định các điều kiện tối ưu. Các tác động của các tham số khác nhau như nồng độ H2O2 ban đầu (100–180 mg/L), pH (3–11), thời gian (10–30 phút) và nồng độ carbon hữu cơ tổng (TOC) ban đầu (4–10 mg/L) đã được nghiên cứu.
Phân tích phương sai (ANOVA) cho thấy sự phù hợp tốt giữa dữ liệu thực nghiệm và mô hình đa thức bậc hai được đề xuất (R2 = 0.98). Kết quả thực nghiệm cho thấy khi tăng nồng độ H2O2, thời gian và giảm nồng độ TOC ban đầu, hiệu suất loại bỏ TOC tăng lên. Giá trị pH trung tính và gần axit cũng cải thiện hiệu suất loại bỏ TOC. Do đó, hiệu suất loại bỏ TOC đạt 78.02% dựa trên các biến độc lập bao gồm nồng độ H2O2 (100 mg/L), pH (6.12), thời gian (22.42 phút) và nồng độ TOC ban đầu (4 mg/L) đã được tối ưu hóa. Các thử nghiệm xác nhận thêm dưới các điều kiện tối ưu cho thấy hiệu suất loại bỏ TOC đạt 76.50% và xác nhận rằng mô hình phù hợp với các thí nghiệm. Ngoài ra, hiệu suất loại bỏ TOC cho nước tự nhiên dựa trên các điều kiện tối ưu của phương pháp bề mặt phản ứng là 62.15%.
Nghiên cứu này cho thấy phương pháp bề mặt phản ứng dựa trên phương pháp Box-Behnken là một công cụ hữu ích để tối ưu hóa các tham số hoạt động cho việc loại bỏ TOC bằng quy trình UV/H2O2.
Việc thải nước thải giàu dầu ra môi trường gây ra những vấn đề nghiêm trọng do sự hiện diện của các hợp chất dầu và vật liệu hữu cơ. Áp dụng các phương pháp sinh học với vi sinh vật sản xuất enzyme lipase có thể là lựa chọn phù hợp để xử lý những loại nước thải này. Mục tiêu của nghiên cứu này là xử lý nước thải dầu có nồng độ dầu cao bằng cách sử dụng vi khuẩn sản xuất enzyme lipase.
Phép đo nồng độ dầu được thực hiện bằng phương pháp trọng lượng tiêu chuẩn, và nước thải đang được nghiên cứu được tạo ra một cách nhân tạo, chứa dầu ô liu, dầu cải và dầu hướng dương. Đầu giống được sử dụng trong nghiên cứu này là giống
Số lượng dầu được loại bỏ ở nồng độ thấp hơn 8,4 g/l đạt hơn 95 ± 1,5%. Việc tăng nồng độ dầu lên 22 g/l làm giảm số lượng dầu được loại bỏ trong thời gian lưu giữ 44 giờ xuống còn 85 ± 2,5%. Hiệu suất tốt nhất trong việc loại bỏ dầu của giống này đạt được trong thời gian lưu giữ 44 giờ và nhiệt độ 30°C khi sử dụng Ammonium Nitrate làm nguồn nitơ, với hiệu suất khoảng 95 phần trăm.
Những phát hiện của nghiên cứu cho thấy rằng vi khuẩn