British Journal of Haematology

Công bố khoa học tiêu biểu

* Dữ liệu chỉ mang tính chất tham khảo

Sắp xếp:  
The value of education and self‐monitoring in the management of warfarin therapy in older patients with unstable control of anticoagulation
British Journal of Haematology - Tập 126 Số 4 - Trang 557-564 - 2004
Tayyaba Khan, Farhad Kamali, Patrick Kesteven, Peter Avery, Hilary Wynne
Summary

Of 125 patients aged 65 years or over, with atrial fibrillation taking warfarin for at least 12 months, with a standard deviation (SD) of prothrombin time, expressed as the International Normalized Ratio (INR) >0·5 over the previous 6 months, 40 were randomized to continue with usual clinic care and 85 to receive education about warfarin. Of these, 44 were randomized to self‐monitor their INR and 41 returned to clinic. Compared with the previous 6 months there was a significant increase in percentage time within the therapeutic range for the 6 months following education [61·1 vs. 70·4; mean difference 8·8; 95% confidence interval (CI): −0·2–17·8; P = 0·054] and following education and self‐monitoring (57 vs. 71·1; mean difference 14·1; 95% CI: 6·7–21·5; P < 0·001), compared with those patients following usual clinic care (60·0 vs. 63·2; mean difference 3·2; 95% CI: −7·3–13·7). Using the same comparative periods, the INR SD fell by 0·24 (P < 0·0001) in the group allocated to education and self‐monitoring, 0·26 (P < 0·0001) in the group receiving education alone and 0·16 (P = 0·003) in the control group. Inter‐group differences were not statistically significant (intervention groups 0·26 ± 0·30 vs. control 0·16 ± 0·3, P = 0·10). Quality‐of‐life measurements and health beliefs about warfarin were unchanged (apart from emotional role limitation) with education or education and self‐monitoring. Patient education regarding anticoagulation therapy could be a cost‐effective initiative and is worthy of further study.

Sự Biến Thiên Theo Chu Kỳ Ngày Của Sắt Huyết Thanh Ở Những Người Khoẻ Mạnh Và Ở Bệnh Nhân Bị Hemochromatosis Dịch bởi AI
British Journal of Haematology - Tập 17 Số 4 - Trang 351-358 - 1969
Rajalingam Sinniah, J R Doggart, D. W. Neill

Tóm tắt. Có sự biến thiên rõ rệt theo chu kỳ ngày đêm của sắt huyết thanh ở những người khoẻ mạnh, trong đó mức sắt huyết thanh cao nhất vào buổi sáng hoặc buổi trưa, và sau đó dần dần giảm xuống trong suốt cả ngày, đạt mức thấp nhất vào buổi tối; nồng độ sắt huyết thanh lại tăng lên vào sáng hôm sau sau giấc ngủ. Nhịp điệu ngày đêm có thể được điều chỉnh bởi hoạt động của hệ thống bán cầu não - hạ đồi, mà có thể chịu ảnh hưởng của các yếu tố thần kinh hoặc hormon. Trái ngược với một số nghiên cứu khác, có sự biến thiên rõ rệt trong nồng độ sắt huyết thanh ở những bệnh nhân bị hemocromatosis vô căn.

Sự biến đổi theo chu kỳ của mức độ bão hòa transferrin ở bệnh nhân thừa sắt: những tác động đối với việc sàng lọc bệnh lý huyết sắc tố C282Y Dịch bởi AI
British Journal of Haematology - Tập 120 Số 2 - Trang 359-363 - 2003
Anne Guillygomarc’h, Jacquelinet Christian, Romain Moirand, Quentin Vincent, Véronique David, Yves Deugnier

Tóm tắt. Việc sàng lọc kiểu hình cho bệnh huyết sắc tố di truyền (GH) phụ thuộc vào việc xác định mức độ bão hòa transferrin (TS). Trong các chương trình sàng lọc quy mô lớn, thời gian lấy máu có thể khó kiểm soát. Chúng tôi đã nghiên cứu sự biến đổi theo chu kỳ của TS vào các thời điểm 08:00, 12:00, 18:00 và 00:00 trong 46 bệnh nhân đồng hợp tử C282Y (GH) và 47 bệnh nhân không bị GH (NH), để xác định xem thời gian lấy máu có ảnh hưởng đến kết quả sàng lọc hay không. Trong cả hai nhóm, có sự biến đổi theo chu kỳ đáng kể ở mức độ TS, với giá trị cao nhất vào lúc 08:00 và thấp nhất vào lúc 00:00. Tại bất kỳ thời điểm nào, TS ở nhóm GH cao hơn đáng kể so với nhóm NH (P < 0.0001). Đối với cả hai nhóm, có sự giảm đáng kể về TS giữa 08:00 và 00:00 (P < 0.0001), nhưng sự giảm này không rõ ràng ở nhóm GH khi so với bệnh nhân NH (tương tác P < 0.0073). Các đường cong đặc trưng hoạt động của bộ thu (ROC) được tạo ra cho TS vào các thời điểm 08:00, 12:00, 18:00 và 00:00 cho thấy hiệu suất chẩn đoán GH tương tự, với ngưỡng TS thay đổi từ 64% vào lúc 08:00 đến 36% vào lúc 00:00. Kết luận, đối với các nghiên cứu sàng lọc về đồng hợp tử C282Y, việc xác định mức độ bão hòa transferrin có thể được thực hiện bất kỳ lúc nào trong ngày.

Mức độ l‐arginine giảm trong cơn khủng hoảng tắc mạch cấp ở người lớn tại phòng cấp cứu Dịch bởi AI
British Journal of Haematology - Tập 120 Số 3 - Trang 532-534 - 2003
Bernard L. Lopez, Allyson A. Kreshak, Claudia R. Morris, Linda Davis‐Moon, Samir K. Ballas, Xinliang Ma

Tóm tắt. Các nghiên cứu trên trẻ em đã chứng minh rằng l‐arginine (l‐arg), tiền chất của oxit nitric, bị giảm trong cơn khủng hoảng tắc mạch (VOC). Nghiên cứu này nhằm xác định xem mức độ l‐arginine có bị thay đổi trong cơn khủng hoảng VOC ở người lớn tại phòng cấp cứu hay không. Mức độ l‐arg trong huyết tương và sản phẩm chuyển hóa của oxit nitric (NOx) được thu thập từ bệnh nhân VOC người lớn đến khám tại phòng cấp cứu. Năm mươi bệnh nhân có mức độ l‐arg trong huyết tương thấp đáng kể (29·78 μmol/l ± 11·21, P < 0·05 vs nhóm kiểm soát ổn định = 41·16 μmol/l ± 5·04) và mức NOx trong huyết tương cũng thấp đáng kể (12·33 μmol/l ± 10·28, P < 0·05 vs nhóm kiểm soát ổn định = 25·2 ± 2·6 µmol/l). Cả mức l‐arg lẫn NOx đều không dự đoán được diễn biến lâm sàng của VOC.

Mối liên hệ giữa đa hình gen T‐786C eNOS và sự nhạy cảm tăng cao với hội chứng ngực cấp tính ở nữ giới mắc bệnh hồng cầu hình liềm Dịch bởi AI
British Journal of Haematology - Tập 124 Số 2 - Trang 240-243 - 2004
Kanu Sharan, Saul Surrey, Samir K. Ballas, Meggin K. Borowski, Marcella Devoto, Wang Kai-fen, Eric Sandler, Michael A. Keller
Tóm tắt

Hội chứng ngực cấp tính (ACS) là một biến chứng đe dọa tính mạng của bệnh hồng cầu hình liềm (SCD). Một nghiên cứu hồi cứu đã được thực hiện để đánh giá vai trò của các đa hình trong gen synthase nitric oxide nội mô (eNOS) (E298DT‐786C) ở bệnh nhân SCD người Mỹ gốc Phi. Allele D298 không cho thấy mối liên hệ; allel C‐786 cho thấy sự liên kết có ý nghĩa thống kê (P = 0·0061) ở các trường hợp ACS nữ. Phân tích hồi quy logistic đa biến cho thấy nguy cơ tương đối của ACS là 8·695 (P = 0·0076, khoảng tin cậy 95% 1·761–42·920) đối với những phụ nữ mang allele C‐786. Đa hình gen eNOS T‐786C là một yếu tố di truyền đặc trưng theo giới tính, liên quan đến sự nhạy cảm tăng cao đối với ACS ở những phụ nữ mắc SCD.

#Hội chứng ngực cấp tính #bệnh hồng cầu hình liềm #đa hình gen #sinh tổng hợp nitric oxide nội mô #nguy cơ tương đối
Phân tích biểu hiện gen trong bệnh đa hồng cầu nguyên phát: sự quá biểu hiện của yếu tố phiên mã NF‐E2 Dịch bởi AI
British Journal of Haematology - Tập 129 Số 1 - Trang 138-150 - 2005
Philipp S. Goerttler, Clemens Kreutz, Johannes Donauer, Daniel Faller, Thomas Maiwald, E März, Brigitta Rumberger, Titus Sparna, Annette Schmitt‐Graeff, Jochen Wilpert, Jens Timmer, Gerd Walz, Heike L. Pahl
Tóm tắt

Nguyên nhân phân tử của bệnh đa hồng cầu nguyên phát (PV) vẫn chưa được biết đến, và việc phân biệt giữa PV và tăng hồng cầu thứ phát (SE) có thể gặp khó khăn. Phân tích biểu hiện gen có thể xác định các ứng cử viên tham gia vào bệnh sinh của PV và tạo ra một dấu hiệu phân tử hỗ trợ chuẩn đoán. Do đó, chúng tôi đã thực hiện phân tích vi thể cDNA trên 40 bệnh nhân PV và 12 bệnh nhân SE. Hai bộ dữ liệu độc lập đã được thu thập: bằng cách sử dụng thiết kế huấn luyện/khẳng định hai bước, một tập hợp gồm 64 gen (các dự đoán lớp) đã được xác định, có khả năng phân biệt chính xác bệnh nhân PV và SE. Riêng biệt, 253 gen đã được xác định là được tăng cường và 391 gen giảm hơn 1,5 lần ở PV so với các đối chứng khỏe mạnh (P < 0·01). Trong số các gen quá biểu hiện ở PV, 27 gen chứa các vị trí Sp1: vì vậy chúng tôi đề xuất rằng hoạt động bị thay đổi của các yếu tố phiên mã giống như Sp1 có thể góp phần vào nguyên nhân phân tử của PV. Một mục tiêu của Sp1, yếu tố phiên mã NF‐E2 [yếu tố hạt nhân (xuất phát từ hồng cầu 2)], được quá biểu hiện từ 2 đến 40 lần ở bệnh nhân PV. Trong tủy xương PV, NF‐E2 được quá biểu hiện trong các tế bào bạch cầu lớn, tiền thân hồng cầu và bạch cầu hạt. Đã có bằng chứng cho thấy sự quá biểu hiện của NF‐E2 dẫn đến sự phát triển của các thuộc địa hồng cầu độc lập với erythropoietin và rằng sự biểu hiện NF‐E2 ngoài ý muốn có thể tái lập trình các tế bào đơn nhân theo hướng biệt hóa tế bào hồng cầu và tế bào lớn. Nồng độ yếu tố phiên mã vì vậy có thể kiểm soát cam kết dòng tế bào. Chính vì vậy, chúng tôi đề xuất rằng nồng độ NF‐E2 tăng cao ở bệnh nhân PV dẫn đến sự sản xuất quá mức các tế bào hồng cầu và, ở một số bệnh nhân, tế bào lớn/tế bào tiểu cầu. Trong mô hình này, mức độ quá biểu hiện của NF‐E2 xác định cả độ nặng của tăng hồng cầu và sự hiện diện hoặc vắng mặt đồng thời của thrombocytosis.

Sự biểu hiện quá mức của NF‐E2 làm chậm quá trình trưởng thành của tế bào hồng cầu và tăng cường sản xuất hồng cầu Dịch bởi AI
British Journal of Haematology - Tập 146 Số 2 - Trang 203-217 - 2009
Manuel Mutschler, Angela Magin, Martina Buerge, Roland Roelz, Daniel H. Schanne, Britta Will, Ingo H. Pilz, Anna Ritá Migliaccio, Heike L. Pahl
Tóm tắt

Yếu tố phiên mã Nuclear Factor‐Erythroid 2 (NF‐E2) được biểu hiện quá mức ở phần lớn bệnh nhân mắc bệnh đa hồng cầu (PV). Trong các mô hình chuột, sự biểu hiện quá mức NF‐E2 làm tăng sự tăng sinh và thúc đẩy tính khả thi của tế bào trong điều kiện không có erythropoietin (EPO). Sự phát triển độc lập với EPO là một dấu hiệu điển hình của PV. Do đó, chúng tôi giả thuyết rằng sự biểu hiện quá mức NF‐E2 góp phần vào erythrocytosis, đặc trưng bệnh lý của PV. Do đó, chúng tôi đã điều tra tác động của sự biểu hiện quá mức NF‐E2 trong các tế bào CD34+ khỏe mạnh. Sự biểu hiện quá mức NF‐E2 đã dẫn đến sự chậm trễ trong quá trình trưởng thành của tế bào hồng cầu, thể hiện qua sự xuất hiện muộn của các tiền thân hồng cầu dương tính với glycophorin A. Sự chậm trưởng thành cũng được quan sát tương tự trong các tế bào hồng cầu từ bệnh nhân PV so với các mẫu đối chứng khỏe mạnh. Quá trình trưởng thành kéo dài dẫn đến sự gia tăng đáng kể số lượng tế bào hồng cầu tích lũy cả trong các mẫu nuôi cấy PV và trong các tế bào CD34+ biểu hiện quá mức NF‐E2. Tương tự, sự biểu hiện quá mức NF‐E2 đã làm thay đổi sự hình thành khối u hồng cầu, dẫn đến sự gia tăng hình thành các đơn vị bùng nổ của tế bào hồng cầu. Những dữ liệu này cho thấy rằng sự biểu hiện quá mức NF‐E2 làm chậm giai đoạn đầu của quá trình trưởng thành hồng cầu, dẫn đến sự mở rộng của những tổ tiên hồng cầu, từ đó tăng số lượng hồng cầu sinh ra từ một tế bào CD34+. Những phát hiện này đề xuất một vai trò của NF‐E2 trong việc điều tiết hiện tượng erythrocytosis ở PV.

Quản lý trước sinh và trong thời kỳ chuyển dạ về bệnh thiếu fibrinogen bẩm sinh Dịch bởi AI
British Journal of Haematology - Tập 109 Số 2 - Trang 364-366 - 2000
Takao Kobayashi, Naohiro Kanayama, Naoki Tokunaga, Toshihiko Asahina, Toshihiko Terao

Chúng tôi đã ghi nhận ba trường hợp và bốn ca sinh thành công với bệnh thiếu fibrinogen bẩm sinh và đề xuất các hướng dẫn sau cho việc quản lý trước sinh và trong thời kỳ chuyển dạ: (i) chảy máu sinh dục thường bắt đầu từ tuần thứ 5 của thai kỳ và sảy thai tự nhiên thường xảy ra vào tuần thứ 6–8 của thai kỳ nếu không có truyền fibrinogen; (ii) mức fibrinogen phải tối thiểu là 0,60 g/l và nếu có thể, cao hơn 1,0 g/l trong suốt thai kỳ; (iii) lượng fibrinogen cần thiết tăng lên khi thai kỳ tiến triển và khi có chuyển dạ sinh non xảy ra; (iv) mức fibrinogen dưới sự truyền liên tục fibrinogen trong quá trình chuyển dạ phải đạt tối thiểu 1,5 g/l và nếu có thể, cao hơn 2,0 g/l để ngăn ngừa bong nhau; (v) thời kỳ hậu sản thường thuận lợi với liều truyền fibrinogen giảm.

Chảy máu và huyết khối ở 55 bệnh nhân mắc afibrinogenaemia di truyền Dịch bởi AI
British Journal of Haematology - Tập 107 Số 1 - Trang 204-206 - 1999
Lak, Keihani, Elahi, Flora Peyvandi, Mannucci

Kiến thức về phổ triệu chứng ở những bệnh nhân mắc afibrinogenaemia di truyền bị hạn chế bởi sự hiếm gặp của khiếm khuyết đông máu này. Chúng tôi đã so sánh một loạt lớn 55 bệnh nhân afibrinogenaemic từ Iran với 100 bệnh nhân thiếu hụt yếu tố VIII nặng. Ở afibrinogenaemia, có sự gia tăng tần suất triệu chứng chảy máu loại niêm mạc, nhưng chảy máu khớp và cơ ít xảy ra và ít nghiêm trọng hơn so với bệnh máu khó đông. Chảy máu dây rốn tương đối thường xuyên chỉ ở những bệnh nhân afibrinogenaemic. Hai bệnh nhân trẻ phát triển các đợt huyết khối tự phát và ba phụ nữ có tiền sử sảy thai tái phát. Tổng quan, trong afibrinogenaemia, triệu chứng chảy máu có tính chất khác biệt về chất lượng và ít nghiêm trọng hơn so với bệnh máu khó đông. Afibrinogenaemia cũng có thể đi kèm với các biểu hiện huyết khối.

Primordial role of CD34+38 cells in early and late trilineage haemopoietic engraftment after autologous blood cell transplantation
British Journal of Haematology - Tập 103 Số 2 - Trang 568-581 - 1998
HÉnon, Sovalat, M. Becker, Arkam, Mario Ojeda‐Uribe, Raidot, Husseini, Wunder, Bouderont, Audhuy

In order to better define which cell subset contained in graft products might be the most predictive of haemopoietic recovery following autologous blood cell transplantation (ABCT), the relationships between the amounts of reinfused mononuclear cells (MNC), CFU‐GM, total CD34+ cells and their CD33 and CD38 subsets, and the successive stages of trilineage engraftment kinetics, were studied in 45 cancer patients, using the Spearman correlation test, a linear regression model and a log‐inverse model. No relationship was found between the infused numbers of MNC, CD33+ and CD33 subsets observed and the numbers of days to reach predetermined absolute neutrophil (ANC), platelet and reticulocyte counts. The infused numbers of CFU‐GM, CD34+ and CD34+38+ cells correlated inconstantly with haemopoietic recovery parameters. The strongest and the most constant correlations were significantly observed between the infused numbers of CD34+38 cells and each trilineage engraftment parameter. The log‐inverse model determined a threshold dose of 0.05 × 106 (= 5 × 104) CD34+38 cells/kg, below which the trilineage engraftment kinetics were significantly slower and unpredictable. Post‐transplant TBI‐conditioning regimens increased the low cell dose‐related delay of engraftment kinetics whereas post‐transplant administration of haemopoietic growth factors (HGF) seemed to abrogate this delay. This would justify clinical use of HGF only in patients transplanted with CD34+38 cell amounts lower than the proposed threshold value.  This study suggests that the CD34+38 subpopulation, although essentially participating in late complete haemopoietic recovery, is also composed of committed progenitor cells involved in early trilineage engraftment.

Tổng số: 336   
  • 1
  • 2
  • 3
  • 4
  • 5
  • 6
  • 10