Độ ổn định của sự liền xương trong gãy thân xương chày: Đo lường bằng phương pháp không xâm lấn

Springer Science and Business Media LLC - Tập 102 - Trang 242-247 - 1984
P. Edholm1, R. Hammer2, S. Hammerby1, B. Lindholm1
1Department of Diagnostic Radiology, Linköping University Medical School, Linköping, Sweden
2Department of Orthopedic Surgery, Linköping University Medical School, Linköping, Sweden

Tóm tắt

Độ ổn định của sự liền xương trong gãy thân xương chày được theo dõi bằng phương pháp đo lường định kỳ không xâm lấn các giá trị độ lệch phát sinh ở vùng gãy. Bằng cách sử dụng thiết bị So sánh độ lệch, sự khác biệt về góc giữa hai mảnh xương trước và trong quá trình tác động của lực gây lệch có thể được đo. Thước đo tương đối của độ mạnh của sự liền xương được cung cấp bởi một đại lượng, tỷ lệ độ lệch, dựa trên tỉ số giữa độ lệch được tạo ra và độ lớn của mômen uốn được áp dụng. Khi tỷ lệ này giảm xuống dưới một giá trị nhất định, sự liền xương được coi là đủ ổn định để chịu trọng tải trong quá trình đi bộ. Một đồ thị tỷ lệ độ lệch theo thời gian, với các thang logarithmic trên cả hai trục có độ dốc âm và có dạng gần như đường thẳng. Đồ thị này có thể được sử dụng như một công cụ hỗ trợ trong việc phát hiện quá trình liền xương, quyết định thời điểm gỡ bột, và phát hiện bất kỳ sự bất thường nào trong quá trình liền xương. Trong việc điều trị 207 trường hợp gãy thân xương chày, đã thực hiện 508 phép đo độ lệch như vậy.

Từ khóa

#gãy xương chày #độ ổn định #sự liền xương #phương pháp không xâm lấn #đo lường độ lệch

Tài liệu tham khảo

Bauer GCH, Edwards P, Widmark PH (1962) Shaft fractures of the tibia. Etiology of poor results in a consecutive series of 173 fractures. Acta Chir Scand 124:386–395 Brown PW (1974) The early weight-bearing treatment of tibial shaft fractures. Clin Orthop 105:167–178 Carter D, Spengler D (1978) Section III. Basic science and pathology. Mechanical properties and composition of cortical bone. Clin Orthop 135:192–217 Edholm P, Hammer R, Hammerby S, Lindholm B (1983) Comparison of radiographic images; a new method for analysis of very small movements. Acta Radiol Scand 24:267–272 Edwards P, Nilsson BER (1965) Graphic representation of healing time in fractures of the shaft of the tibia. Acta Orthop Scand 36:104–111 Edwards P (1965) Fracture of the shaft of the tibia: 495 consecutive cases in adults. Acta Orthop Scand [Suppl] Hayes WC (1980) Biomechanics of fracture treatment. In: Heppenstahl RB (ed) Fracture treatment and healing. Saunders, Philadelphia, pp 124–172 Jernberger A (1970) Measurement of stability of tibial fractures. A mechanical method. Acta Orthop Scand [Suppl] 135 Jörgensen TE (1972) Measurements of stability of crural fractures treated with Hoffman-osteotaxis. II. Measurements on crural fractures. Acta Orthop Scand 43:207–218. —III. The uncomplicated terminal phase of healing of crural fractures. Acta Orthop Scand 43:264–279.— IV. The complicated terminal phase of healing of crural fractures. Acta Orthop Scand 43:280–291 Karlström G, Olerud S (1974) Fractures of the tibial shaft-a critical evaluation of treatment alternatives. Clin Orthop 105:82–115 Matthews LS, Kaufer H, Sonstegard DA (1974) Manual sensing of fracture stability. A biomechanical study. Acta Orthop Scand 45:373–381 Nicoll EA (1964) Fractures of the tibial shaft, a survey of 705 cases. J Bone Joint Surg [Br] 46:373–387 Nicholls PJ, Berg E, Bliven FE, Kling JM (1979) X-ray diagnosis of healing fractures in rabbit. Clin Orthop 142:234–236 Watson-Jones R, Coltart WD (1943) Slow union of fractures with a study of 804 fractures of the shafts of the tibia and femur. Br J Surg 30:260–276