Nội dung được dịch bởi AI, chỉ mang tính chất tham khảo
Tác động của dữ liệu lâm sàng đến việc đánh giá quá trình lành xương gãy xương đùi
Tóm tắt
Lành xương qua hình ảnh X-quang là một chỉ số kết quả phổ biến trong các thử nghiệm về chỉnh hình và việc đánh giá bởi các nhà đánh giá kết quả thường được thực hiện chỉ dựa trên các phim X-quang thông thường. Mức độ mà quy trình này phản ánh thực tiễn lâm sàng, trong đó cả phim X-quang và ghi chép lâm sàng đều có sẵn, hiện vẫn chưa rõ ràng. Chúng tôi đã khám phá tác động của việc thêm ghi chú lâm sàng vào các hình ảnh X-quang trong quá trình đánh giá của một thử nghiệm khả thi về gãy thân xương chày. Dữ liệu hình ảnh X-quang và lâm sàng từ một thử nghiệm ngẫu nhiên đa trung tâm với 51 bệnh nhân bị gãy xương chày được điều trị phẫu thuật đã tạo thành cơ sở cho dữ liệu nghiên cứu. Tại thời điểm kết thúc thử nghiệm, các phim X-quang tuần tự (tư thế chính diện và bên hông) đã được đánh giá độc lập để xác định tiến độ lành xương, được định nghĩa là sự nối liền ít nhất 3 trong số 4 lớp vỏ xương, bởi một ủy ban đánh giá gồm 3 bác sĩ phẫu thuật chấn thương chỉnh hình không biết thông tin trước đó. Ngay sau khi xác định thời gian lành xương qua hình ảnh X-quang, mỗi bác sĩ đã được cung cấp ghi chú lâm sàng liên quan đến mỗi lần theo dõi hình ảnh X-quang và được yêu cầu xem xét lại ấn tượng ban đầu của họ. Sự đồng thuận đã đạt được cho cả hai quyết định đánh giá. Chúng tôi đã tính toán tỷ lệ thời gian đồng thuận về quyết định lành xương đã thay đổi sau khi đánh giá ghi chú lâm sàng. Chúng tôi cũng đã xem xét nội dung của các ghi chú lâm sàng và ảnh hưởng tương đối của chúng đối với quyết định của ủy ban. Trong số 51 bệnh nhân, 47 người được xác định là đã lành xương qua hình ảnh X-quang trong thời gian theo dõi của thử nghiệm, và việc xem xét ghi chú lâm sàng đã dẫn đến thay đổi 40% (19 trong số 47) quyết định đồng thuận về thời gian lành xương; tuy nhiên, các quyết định đã điều chỉnh lại có khả năng xảy ra để hỗ trợ cho một thời gian lành xương sớm hơn hoặc muộn hơn. Các ghi chú lâm sàng dẫn đến thay đổi từ quyết định 'đã lành' hoặc 'chưa lành' chứa đáng kể nhiều ý kiến về việc giảm đau hoặc gia tăng đau đớn, việc trở lại hoặc không trở lại việc chịu trọng lượng, hoặc việc trở lại hoặc không trở lại công việc/các hoạt động trước chấn thương (p < 0,001). Việc thêm ghi chú lâm sàng vào quá trình đánh giá lành xương qua hình ảnh X-quang đã thay đổi quyết định kết quả ở một số lượng lớn trường hợp. Các nhà nghiên cứu thử nghiệm chỉnh hình nên xem xét việc thêm ghi chú lâm sàng vào tài liệu đánh giá trong các nghiên cứu về lành xương để tăng cường khả năng tổng quát của kết quả.
Từ khóa
#lành xương #gãy xương chày #ghi chú lâm sàng #đánh giá kết quả #nghiên cứu chỉnh hìnhTài liệu tham khảo
Friedman LM, Furberg CD, DeMets DL: Data Collection and Quality Control. Fundamentals of Clinical Trials. 1998, Springer-Verlag, New York, 3
Bhandari M, Joensson A: Should our outcomes be separately adjudicated?. Clinical research for surgeons. 2009, Thieme, New York, 1
Leung KS, Lee WS, Tsui HF, Liu PP, Cheung WH: Complex tibial fracture outcomes following treatment with low-intensity pulsed ultrasound. Ultrasound Med Biol. 2004, 30: 389-395. 10.1016/j.ultrasmedbio.2003.11.008.
Emami A, Petrén-Mallmin M, Larsson S: No effect of low-intensity ultrasound on healing time of intramedullary fixed tibial fractures. J Orthop Trauma. 1999, 13: 252-257. 10.1097/00005131-199905000-00005.
Handolin L, Kiljunen V, Arnala I, Kiuru MJ, Pajarinen J, Partio EK, Rokkanen P: Effect of ultrasound therapy on bone healing of lateral malleolar fractures of the ankle joint fixed with bioabsorbable screws. J Orthop Sci. 2005, 10: 391-395. 10.1007/s00776-005-0901-0.
Mammi GI, Rocchi R, Cadossi R, Massari L, Traina GC: The electrical stimulation of tibial osteotomies. Double-blind study. Clin Orthop. 1993, 288: 246-253.
Corrales LA, Morshed S, Bhandari M, Miclau T: Variability in the assessment of fracture-healing in orthopaedic trauma studies. J Bone Joint Surg Am. 2008, 90: 1862-1868. 10.2106/JBJS.G.01580.
McClelland D, Thomas PB, Bancroft G, Moorcraft CI: Fracture healing assessment comparing stiffness measurements using radiographs. Clinical Orthop Relat Res. 2006, 457: 214-219.
Landis JR, Koch GG: The measurement of observer agreement for categorical data. Biometrics. 1977, 33: 159-174. 10.2307/2529310.
Csimma C, Swiontkowski MF: Large clinical trials in musculoskeletal trauma: are they possible? Lessons learned from the international study of the use of rhBMP-2 in open tibial fractures. J Bone Joint Surg Am. 2005, 87: 218-222.
Bhandari M, Guyatt GH, Swiontkowski MF, Tornetta P, Sprague S, Schemitsch EH: A lack of consensus in the assessment of fracture healing among orthopaedic surgeons. J Orthop Trauma. 2002, 16: 562-566. 10.1097/00005131-200209000-00004.
Morshed S, Corrales L, Genant H, Miclau T: Outcome assessment in clinical trials of fracture-healing. J Bone Joint Surg Am. 2008, 90 (Suppl 1): 62-67.
Busse JW, Kaur J, Mollon B, Bhandari M, Tornetta P, Schünemann HJ, Guyatt GH: Low intensity pulsed ultrasonography for fractures: systematic review of randomised controlled trials. BMJ. 2009, 338: b351-10.1136/bmj.b351.
Beaton DE, Schemitsch E: Measures of health-related quality of life and physical function. Clin Orthop Relat Res. 2003, 413: 90-105.
Agel J, Swiontkowski MF: Guide to outcomes instruments for musculoskeletal trauma research. J Orthop Trauma. 2006, 20: S65-146. 10.1097/00005131-200609001-00001.
Tudor GR, Finlay D, Taub N: An assessment of inter-observer agreement and accuracy when reporting plain radiographs. Clin Radiol. 1997, 52: 235-238. 10.1016/S0009-9260(97)80280-2.
Skolasky RL, Maggard AM, Hilibrand AS, Northrup BE, Ullrich CG, Albert TJ, Coe JD, Riley LH: Agreement between surgeons and an independent panel with respect to surgical site fusion after single-level anterior cervical spine surgery: a prospective, multicenter study. Spine. 2006, 31: E503-506.
Irwig L, Macaskill P, Walter SD, Houssami N: New methods give better estimates of changes in diagnostic accuracy when prior information is provided. J Clin Epidemiol. 2006, 59: 299-307. 10.1016/j.jclinepi.2005.08.013.
