SỰ PHOTODEGRADATION CỦA PORPHYRINS TRONG TẾ BÀO CÓ THỂ ĐƯỢC SỬ DỤNG ĐỂ ƯỚC LƯỢNG THỜI GIAN SỐNG CỦA OXYGEN ĐƠN
Tóm tắt
Các tế bào NHIK 3025 được nuôi cấy với Photofrin II (PII) và/hoặc tetra (3‐hydroxyphenyl)porphyrin (3THPP) và được chiếu ánh sáng ở bước sóng 400 hoặc 420 nm, tức là tại các bước sóng của cực đại trong phổ kích thích huỳnh quang của hai thuốc nhuộm này. Động lực học của quá trình phân hủy quang học của các thuốc nhuộm đã được nghiên cứu. Khi xuất hiện riêng biệt trong các tế bào, hai thuốc nhuộm này bị phân hủy quang học với hiệu suất lượng tử tương tự nhau. 3THPP bị phân hủy hiệu quả hơn từ 3 đến 6 lần nhờ photon ánh sáng hấp thu bởi phân đoạn huỳnh quang của 3THPP so với photon ánh sáng hấp thu bởi phân đoạn huỳnh quang của PII có mặt trong cùng một tế bào. Khoảng cách mà các trung gian phản ứng, chủ yếu được cho là 1O2, khuếch tán để gây ra phân hủy quang học được ước lượng nằm trong khoảng 0.01–0.02 μm, tương ứng với thời gian sống của trung gian trong các tế bào là 0.01–0.04 μs. PII có các vị trí liên kết tại protein trong tế bào như được chỉ ra bởi một dải chuyển năng lượng trong phổ kích thích huỳnh quang tại 290 nm. Trong suốt thời gian chiếu sáng, dải này phân rã nhanh hơn so với dải Soret của PII dưới các điều kiện hiện tại. Các sản phẩm quang (1O2 v.v.) được sinh ra tại một vị trí liên kết đóng góp đáng kể vào việc phá hủy các vị trí liên kết xa.
Từ khóa
Tài liệu tham khảo
Mang T. S., 1990, An evaluation of the role of photobleaching concepts of Photofrin II in photodynamic therapy to human clinical trials, Photochem. Photobiol., 51, 72S
Moan J., 1981, Photodynamic effect on DNA and cell survival of human cells sensitized by hematoporphyrin, Photobiochem. Photobiophys., 2, 301
Western A., 1988, Light in Biology and Medicine, 58
White A., 1978, Principles of Biochemistry, 301