Rituximab cho bệnh viêm khớp dạng thấp không đáp ứng với liệu pháp kháng yếu tố hoại tử khối u: Kết quả của một thử nghiệm pha III, đa trung tâm, ngẫu nhiên, mù đôi, có kiểm soát giả dược đánh giá hiệu quả chính và an toàn ở tuần thứ hai mươi bốn

Wiley - Tập 54 Số 9 - Trang 2793-2806 - 2006
Stanley Cohen1, Paul Emery, Maria Greenwald, Maxime Dougados, Richard Furie, Mark C. Genovese, Edward Keystone, J. Loveless, Gerd‐Rüdiger Burmester, Matthew Cravets, E. Hessey, T Shaw, Mark C Totoritis
1Radiant Research, Dallas, Texas 75235, USA. [email protected]

Tóm tắt

Tóm tắtMục tiêu

Xác định hiệu quả và độ an toàn của việc điều trị bằng rituximab kết hợp với methotrexate (MTX) ở bệnh nhân viêm khớp dạng thấp (RA) hoạt động không đáp ứng đầy đủ với các liệu pháp kháng yếu tố hoại tử u (anti‐TNF) và khám phá dược động học cũng như dược lực học của rituximab ở đối tượng này.

Phương pháp

Chúng tôi đã đánh giá hiệu quả và an toàn chính tại tuần thứ 24 ở những bệnh nhân tham gia vào thử nghiệm REFLEX (Randomized Evaluation of Long‐Term Efficacy of Rituximab in RA), một nghiên cứu pha III kéo dài 2 năm, đa trung tâm, ngẫu nhiên, mù đôi, có kiểm soát giả dược về liệu pháp rituximab. Những bệnh nhân có RA hoạt động và không đáp ứng đầy đủ với 1 hoặc nhiều liệu pháp anti‐TNF đã được ngẫu nhiên hóa để nhận rituximab dạng tiêm tĩnh mạch (1 liệu trình, gồm 2 lần truyền 1.000 mg) hoặc giả dược, cả hai đều có nền MTX. Điểm cuối chính của hiệu quả là đáp ứng theo tiêu chí cải thiện 20% của Hiệp hội Thấp khớp Hoa Kỳ (ACR20) ở tuần 24. Các điểm cuối phụ là đáp ứng theo tiêu chí cải thiện ACR50 và ACR70, Điểm Hoạt động Bệnh trên 28 khớp, và tiêu chí đáp ứng của Liên minh Châu Âu chống Thấp khớp (EULAR) ở tuần 24. Các điểm cuối bổ sung bao gồm điểm trên Bảng đánh giá chức năng cho bệnh mãn tính-mệt mỏi (FACIT-F), Chỉ số Khuyết tật của Bảng đánh giá sức khỏe (HAQ DI), và Bảng câu hỏi 36 mục tóm tắt (SF-36), cũng như điểm phóng xạ được sửa đổi bởi Genant ở tuần 24.

Kết quả

Bệnh nhân được chỉ định giả dược (n = 209) và rituximab (n = 311) đều có RA hoạt động lâu dài. Ở tuần 24, số lượng bệnh nhân được điều trị rituximab chứng minh đáp ứng ACR20 nhiều hơn đáng kể (P < 0.0001) so với giả dược (51% so với 18%), ACR50 (27% so với 5%), và ACR70 (12% so với 1%), cũng như đáp ứng EULAR từ trung bình đến tốt (65% so với 22%). Tất cả các thông số đáp ứng ACR đều được cải thiện đáng kể ở bệnh nhân điều trị bằng rituximab, những người cũng có sự cải thiện đáng kể về mặt lâm sàng về mệt mỏi, khuyết tật và chất lượng cuộc sống liên quan đến sức khỏe (biểu thị qua các điểm FACIT‐F, HAQ DI, và SF‐36, tương ứng) và cho thấy xu hướng giảm tiến triển ở các điểm cuối phóng xạ. Rituximab làm cạn kiệt tế bào B CD20+ ngoại vi, nhưng mức độ globulin miễn dịch trung bình (IgG, IgM và IgA) vẫn nằm trong khoảng bình thường. Hầu hết các tác dụng phụ xảy ra với truyền rituximab đầu tiên và ở mức độ nhẹ đến trung bình. Tỷ lệ nhiễm trùng nghiêm trọng là 5,2 trên 100 năm bệnh nhân trong nhóm rituximab và 3,7 trên 100 năm bệnh nhân trong nhóm giả dược.

Kết luận

Ở tuần 24, một liệu trình đơn lẻ rituximab kết hợp với liệu pháp MTX đồng thời đã mang lại những cải thiện đáng kể và có ý nghĩa lâm sàng trong hoạt động bệnh ở các bệnh nhân có RA hoạt động lâu dài mà không đáp ứng đầy đủ với 1 hoặc nhiều liệu pháp anti‐TNF.

Từ khóa

#Rituximab #viêm khớp dạng thấp #kháng yếu tố hoại tử khối u #dược động học #dược lực học #effectiveness #safety #đa trung tâm #ngẫu nhiên #mù đôi #giả dược #ACR20 #ACR50 #ACR70 #EULAR #FACIT-F #HAQ DI #SF-36 #sự cải thiện #chất lượng cuộc sống.

Tài liệu tham khảo

10.1093/rheumatology/39.suppl_2.3

10.7326/0003-4819-136-12-200206180-00012

10.1002/1529-0131(199805)41:5<778::AID-ART4>3.0.CO;2-V

10.1093/rheumatology/32.8.717

10.1002/art.1780270805

10.1002/art.20019

10.1056/NEJM200011303432202

10.1002/art.10697

10.1056/NEJM199901283400401

10.1136/ard.2004.023473

Van Vollenhoven RF, 2005, Six year report of the STURE Registry for biologicals in rheumatology: satisfactory overall results but plenty of room for improvement, Arthritis Rheum, 52, S135

10.1046/j.1365-2567.1999.00772.x

Panayi GS, 1993, The immunopathogenesis of rheumatoid arthritis, Br J Rheumatol, 32, 4

10.1097/00002281-200305000-00011

10.1056/NEJMra032906

10.1016/S0065-2776(08)60662-8

10.1002/stem.5530130506

10.4049/jimmunol.167.8.4710

10.1182/blood.V83.2.435.435

10.1093/rheumatology/40.2.205

10.1056/NEJMoa032534

10.1042/bst0250705

10.1038/74704

10.1128/9781555818012.ch4

10.1002/art.1780310302

10.1002/1529-0131(199809)41:9<1583::AID-ART8>3.0.CO;2-H

1998, Cancer Therapy Evaluation Program: Common Toxicity Criteria version 2.0 (CTC)

10.1002/art.1780380602

10.1002/art.1780380107

10.1002/art.1780390105

10.1056/NEJM199507203330302

10.2165/00063030-200115020-00001

10.1002/1529-0131(200109)44:9<2029::AID-ART352>3.0.CO;2-2

10.1080/03009740310000346

10.1016/S0889-857X(05)70205-2

Kimbey E, 2005, Tolerability and safety of rituximab (MabThera), Cancer Treat Rev, 31, 465

McLaughlin P, 1999, Rituximab in indolent lymphoma: the single‐agent pivotal trial, Semin Oncol, 26, 79

Edwards JC, 2002, Efficacy and safety of rituximab, a B‐cell targeted chimeric monoclonal antibody: a randomized, placebo‐controlled trial in patients with rheumatoid arthritis, Arthritis Rheum, 46, S197

10.1002/art.21778

Emery P, 2004, Efficacy and safety of rituximab at 2 years following a single treatment in patients with active rheumatoid arthritis, Arthritis Rheum, 50, S659

Pavelka K, 2005, Efficacy and safety following repeated courses of rituximab in patients with active rheumatoid arthritis, Ann Rheum Dis, 64, 435