Đau sau phẫu thuật ở người lớn sau cắt amidan: Có sự khác biệt nào giữa các kỹ thuật?

Itziar Álvarez Palacios1, Ricardo González-Orús Álvarez-Morujo2, Cristina Alonso Martínez1, Alejandra Ayala Mejías1, Oscar Arenas Brítez1
1ENT Department, Hospital Central de la Cruz Roja, Madrid, Spain
2ENT Department, Hospital General Universitario Gregorio Marañón, Madrid, Spain

Tóm tắt

Cắt amidan là một trong những thủ thuật phẫu thuật phổ biến nhất được thực hiện trên thế giới. Nhiều kỹ thuật đã được phát triển nhằm giảm tỷ lệ biến chứng và tăng cường hồi phục sau khi cắt amidan. Nghiên cứu của chúng tôi được thiết kế để so sánh cơn đau sau phẫu thuật với ba kỹ thuật khác nhau: phẫu thuật cắt lạnh (CD), phẫu thuật cắt đơn cực - lưỡng cực (MBD) và phẫu thuật cắt sử dụng coblation (CBD). 103 bệnh nhân trưởng thành được lên lịch cắt amidan theo yêu cầu từ tháng 9 năm 2014 đến tháng 12 năm 2015 và được phân ngẫu nhiên vào các nhóm CD, MBD và CBD. Cơn đau sau phẫu thuật được đánh giá bằng thang số tương tự hình ảnh (VAS) và bài kiểm tra Lattinen (LT). Chúng tôi không tìm thấy sự khác biệt có ý nghĩa giữa các nhóm dựa trên điểm số VAS về cơn đau (p > 0,05), trừ ngày đầu tiên, khi cắt amidan CBD cho thấy điểm số đau cao hơn (p < 0,05). Sự khác biệt trong điểm số LT giữa ba kỹ thuật không có ý nghĩa thống kê (p > 0,05). Việc so sánh tiêu thụ thuốc giảm đau giữa CD, MBD và CBD không thấy có sự khác biệt đáng kể nào bất kể kỹ thuật đã sử dụng. Khi so sánh nhu cầu thuốc giảm đau giữa tuần đầu tiên và tuần thứ hai sau phẫu thuật, sự khác biệt trong yêu cầu thuốc giảm đau là có ý nghĩa thống kê (p < 0,05). Mười bảy ca (16,5%) chảy máu thứ phát đã được báo cáo, nhưng không có sự khác biệt thống kê nào về tỷ lệ chảy máu sau phẫu thuật giữa ba nhóm (p > 0,05). Chúng tôi kết luận rằng trong nghiên cứu của mình, việc so sánh ba kỹ thuật, CD, MBD và CBD, không cho thấy sự khác biệt đáng kể nào về điểm số cơn đau sau cắt amidan và tỷ lệ chảy máu.

Từ khóa

#Cắt amidan #đau sau phẫu thuật #phẫu thuật cắt lạnh #phẫu thuật cắt đơn cực #phẫu thuật cắt sử dụng coblation

Tài liệu tham khảo

Jeffrey A (2002) On the origin of tonsillectomy and the dissection method. Laryngoscope 112:1583–1586 Silveira H, Soares JS, Lima HA (2003) Tonsillectomy: cold dissection versus bipolar electrodissection. Int J Pediatr Otorhinolaryngol 67:345–351 Ozkiris M, Kapusuz Z, Saydam L (2013) Comparison of three techniques in adult tonsillectomy. Eur Arch Otorhinolaryngol 270(3):1443–1447 Wilson YL, Merer DM, Moscatello AL (2009) Comparison of three common tonsillectomy techniques: a prospective randomized, double- blinded, clinical study. Laryngoscope 119(1):162–170 Darrow HD, Siemens C (2002) Indications for tonsillectomy and adenoidectomy. Laryngoscope 112:6–10 Hasan H, Raitiola H, Chrapek W, Pukenader J (2008) Randomized study comparing postoperative pain between coblation and bipolar scissor tonsillectomy. Eur Arch Otorhinolaryngol 265(7):817–820 Dutta N, Bordoloi BM (2002) Indian J Otolaryngol Head Neck Surg 54:74–76 Rakesh S, Anand TS, Payal C, Pranjal K (2012) A prospetive, randomized, double- blind study of coblation versus dissection tonsillectomy in adult patients. Indian J Otolaryngol Head Neck Surg 64(3):290–294 Wexler DB (1996) Recovery after tonsillectomy: electrodissection vs sharp dissection techniques. Otolaryngol Head Neck Surg 114:576–581 Maddern B (2002) Electrosurgery for tonsillectomy. Laryngoscope 112:11–13 Timms MS, Temple RH (2002) Coblation tonsillectomy: a double blind randomized controlled study. J Laryngol Otol 116:450–452 Belloso A, Chidambaran A, Morar P, Timms MS (2003) Coblation tonsillectomy versus dissection tonsillectomy: postoperative haemmorhage. Laryngoscope 113:2010–2013 Ragab SM (2012) Six years of evidence- based adult dissection tonsillectomy with ultrasonic scapel, bipolar electrocautery, bipolar radiofrequency or “cold steel” dissection. J Laryngol Otol 126(10):1056–1062 Leinbach RF, Markwell SJ, Colliver JA, Lin SY (2003) Hot versus cold tonsillectomy: a systematic review of the literature. Otolaryngol Head Neck Surg 129:360–364 Cardozo AA, Hallikeri C, Lawrence H, Sankar V, Hargreaves S (2007) Teenage and adult tonsillectomy: dose–response relationship between diathermy energy used and morbidity. Clin Otolaryngol 32:366–371 Polites N, Joniau S, Wabnitz D, Fassina R, Smythe C, Varley P, Carney AS (2006) Postoperative pain following coblation tonsillectomy: randomized clinical trial. ANZ J Surg 76:226–229 Temple RH, Timms MS (2001) Paediatric cobaltion tonsillectomy. Int J Pediatr Otorhinolaryngol 61:195–198 Lowe D, van der Meulen J (2004) Tonsillectomy technique as a risk factor for postoperative haemorrhage. Lancet 364:697–702 Hopkins C, Geyer M, Topham J (2003) Post- tonsillectomy haemorrhage: a 7-year retrospective study. Eur Arch Otorhinolaryngol 260:454–455 Tolska HL, Takala A, Pitkaniemi J, Jero J (2013) Post-tonsillectomy haemorrhage more common than previously described- an institutional chart review. Acta Otolaryngol 133:181–186 Betancourt AR, Lopez Z, Zerpa V, Carrasco M, Dalmau J (2015) Does surgical technique influence post-tonsillectomy haemorrhage? Our experience. Acta Otorrinolaringol Esp 66:218–223 Windfuhr JP, Wienke A, Chen YS (2009) Electrosurgery as a risk factor for secondary hemorrhage. Eur Arch Otorhinolaryngol 266:110–116 Praveen AC, Parthiban S, Terry RM (2013) High incidence of post- tonsillectomy secondary haemorrhage following coblation tonsillectomy. Indian J Otolaryngol Head Neck Surg 65:24–28 Mueller J, Boeger D, Buentzel J, Esser D, Hoffman K, Jecker P, Mueller A et al (2015) Population- based analysis of tonsil surgery and postoperative hemorrhage. Eur Arch Otorhinolaryngol 272(12):3769–3777