Lập Kế Hoạch Điều Trị Đảo Ngược và Xạ Trị Biến Đổi Cường Độ (IMRT) cho U Nhân Tế Bào và Các Cấp Lympho Trong U Ca Tinh Mũi Họng - Mô Tả Kỹ Thuật Điều Trị, So Sánh Kế Hoạch và Nghiên Cứu Trường Hợp

Springer Science and Business Media LLC - Tập 178 - Trang 517-523 - 2002
Marc W. Münter1, Jürgen Debus1, Holger Hof1, Simeon Nill2, Peter Häring3, Thomas Bortfeld2, Michael Wannenmacher4
1Radiologic Diagnostics and Therapy, German Cancer Research Center (DKFZ), Heidelberg, Germany, , DE
2Department of Medical Physics, German Cancer Research Center (DKFZ), Heidelberg, Germany, , DE
3Central Dosimetry, German Cancer Research Center (DKFZ), Heidelberg, Germany, , DE
4Department of Clinical Radiology, University of Heidelberg, Germany, , DE

Tóm tắt

Lập kế hoạch điều trị đảo ngược và xạ trị biến đổi cường độ (IMRT) hứa hẹn lợi ích trong việc điều trị các khối u vùng đầu và cổ. Hiện tại, các nghiên cứu đã công bố chỉ sử dụng IMRT trong việc điều trị khối u nguyên phát. Trong các nghiên cứu này, các hạch lympho ở cổ được điều trị bằng các kỹ thuật thông thường. Tính khả thi của một kỹ thuật IMRT cho phép điều trị toàn bộ thể tích mục tiêu, bao gồm cả khối u nguyên phát và các hạch lympho, mà không cần tách chùm tia được mô tả. Bệnh nhân và Phương pháp: Để lập kế hoạch điều trị đảo ngược, hệ thống lập kế hoạch KonRad đã được sử dụng. Cả thể tích mục tiêu nguyên phát và thứ cấp (các mức hạch lympho hai bên) đều được điều trị bằng một kế hoạch nguyên phát biến đổi cường độ. Để tăng liều cho thể tích mục tiêu nguyên phát và các hạch lympho nghi ngờ, một kế hoạch tăng cường biến đổi cường độ đã được thực hiện. Kỹ thuật IMRT 'bước và chụp' đã được sử dụng. So sánh kế hoạch giữa cách tiếp cận IMRT được mô tả và một cách tiếp cận IMRT sử dụng kỹ thuật chia chùm tia đã được thực hiện, tập trung vào thời gian điều trị. Một bệnh nhân mắc carcinoma vòm họng đã được điều trị với mục đích chữa bệnh bằng xạ trị hóa trị kết hợp. Kết quả: Liều tổng trung vị cho thể tích mục tiêu nguyên phát là 70 Gy, đối với các hạch lympho nghi ngờ ≥ 66,0 Gy và cho thể tích mục tiêu thứ cấp là 52 Gy. Các liều tối đa đã xác định cho các cơ quan có nguy cơ không bị vượt quá, và liều trung vị cho tuyến nước bọt mang tai được bảo vệ là 21 Gy. So sánh thời gian điều trị giữa hai phương pháp IMRT chỉ ra thời gian điều trị ngắn hơn một chút (1-3 phút) cho kỹ thuật IMRT chia chùm mà không xem xét các phần điều trị thông thường còn lại của kỹ thuật IMRT chia chùm. Bệnh nhân đã đạt được phản ứng hoàn toàn, và sau 18 tháng điều trị không có dấu hiệu tái phát bệnh xuất hiện. Kết luận: IMRT cho phép điều trị các thể tích mục tiêu với liều cao kết hợp với việc bảo tồn tốt các cơ quan có nguy cơ. Cách tiếp cận IMRT được trình bày tại đây giúp cho việc điều trị toàn bộ thể tích mục tiêu với một sắp xếp chùm tia đơn là khả thi và không tăng thời gian điều trị so với kỹ thuật IMRT chia chùm. Thời gian điều trị tương đương với kỹ thuật ba vùng thông thường kết hợp với electron. Kỹ thuật IMRT này có thể ngăn ngừa việc quá liều hoặc thiếu liều tại các đường nối ở vùng đầu và cổ và hơn nữa, có khả năng bảo tồn tuyến nước bọt mang tai, do đó tốt hơn tránh được khô miệng so với các kỹ thuật thông thường.

Từ khóa

#IMRT #xạ trị #lập kế hoạch điều trị đảo ngược #u nhân tế bào #mũi họng #hạch lympho