Nội dung được dịch bởi AI, chỉ mang tính chất tham khảo
Chữa lành gãy xương: so sánh trực tiếp giữa chụp X-quang phóng đại và chụp X-quang thông thường
Tóm tắt
Mục tiêu của nghiên cứu là đánh giá tiềm năng của chụp X-quang phóng đại trong việc chẩn đoán quá trình chữa lành gãy xương và đánh giá các biến chứng của nó. Bảy mươi ba bệnh nhân bị gãy xương hoặc đã phẫu thuật osteotomy đã được chụp X-quang bằng cả hai kỹ thuật là thông thường (không phóng đại) và phóng đại (5 lần). Do có 10 bệnh nhân được chụp X-quang hai lần và 1 bệnh nhân ba lần, tổng cộng có 83 phim X-quang được thu thập bằng mỗi kỹ thuật. Tất cả các phim X-quang được phân tích và các kết quả được đối chiếu với các nghiên cứu theo dõi bệnh nhân. Thiết bị X-quang vi điểm được sử dụng cho chụp X-quang phóng đại có kích thước điểm tiêu cự từ 20–130 μm. Là một hệ thống hình ảnh, chụp X-quang phát quang kỹ thuật số được sử dụng với phóng đại, trong khi hệ thống phim-màn hình thông thường được sử dụng với chụp X-quang thông thường. Chụp X-quang phóng đại được chứng minh là vượt trội hơn so với chụp X-quang thông thường trong 47% các trường hợp: sự hình thành callus nội tủy và ngoại tủy đã được nhận diện sớm hơn và tốt hơn trong 26 trường hợp, và sự hợp nhất xương có thể được đánh giá với độ tin cậy cao hơn trong 33 trường hợp. Trong 49% các trường hợp, chụp X-quang phóng đại có kết quả tương đương và trong 4% có kết quả kém hơn so với chụp X-quang thông thường. Ngoài ra, một “phân tích giữa các người quan sát” đã được thực hiện. Các cấu trúc giải phẫu và bệnh lý được phân loại thành một trong bốn cấp độ. Kết quả cho thấy có sự khác biệt đáng kể (P < 0.01) hơn khi sử dụng chụp X-quang phóng đại. Chúng tôi kết luận rằng kỹ thuật phóng đại là một phương pháp tốt để theo dõi quá trình chữa lành gãy xương trong các giai đoạn đầu.
Từ khóa
#chụp X-quang phóng đại #chữa lành gãy xương #biến chứng #phân tích giữa các người quan sátTài liệu tham khảo
Young JW, Kostrubiak IS, Resnik CS, Paley D (1990) Sonographic evaluation of bone production at the distraction site in Ilizarov limb-lengthening procedures. AJR 154: 125–128
Giebel G (1993) Kallusdistraktion. In: Hierholzer G, Weller S (eds) Traumatologie aktuell, vol 5. Thieme, Stuttgart
Brug E, Winkler S (1991) Zurück zur Kallusheilung durch dynamisierbare Osteosyntheseverfahren. Radiologe 31: 165–171
Aro HT, Wippermann BW, Hodgson SF, Wahner HW, Lewallen DG, Chao EYS (1989) Prediction of properties of fracture callus by measurement of mineral density using micro-bone densitometry. J Bone Joint Surg [Am] 71: 1020–1030
Braunstein EM, Golstein SA, Ku J, Smith P, Matthews LS (1986) Computed tomography and plain radiography in experimental fracture healing. Skeletal Radiol15: 27–31
Schnarkowski P, Weidenmaier W, Mutschler W, Arand M (1992) Erste Erfahrungen zur Quantifizierung der Frakturheilung mittels Computertomographie. Röntgenpraxis45: 380–384
Nutz V, Uexktill-Guldenband V (1988) Computertomographische Untersuchungen der Frakturheilung. Fortschr Röntgenstr 149:396–401
Wallace AL, Strachan RK, Blane A, Best A, Hughes PF (1992) Quantitative early phase scintigraphy in the prediction of healing tibial fractures. Skeletal Radiol 21: 241–245
Hanneschläger G, Reschauer R (1990) Sonographische Verlaufskontrolle der sekundären Frakturheilung. Fortschr Röntgenstr 153: 113–119
Takahashi S, Sakuma S (1975) Magnification radiography. Springer, Berlin Heidelberg New York
Zimmer EA (1953) Die praktische Anwendung und die Ergebnisse der radiologischen Vergrösserungstechnik. Fortschr Röntgenstr 78: 164–169
Rao GUV, Soong AL (1973) Physical characteristics of modern microfocus X-ray tubes. AIR 111: 628–633
Sugiura Y (1958) Clinical application of enlargement radiography in orthopedic surgery: I. Nagoya J Med Sci 21: 333–338
Gebureck P, Fredow G, Sperner W (1991) Anlagenkonzept einer Mikrofokusröhre für die klinische Anwendung. Radiologe 31: 407–412
Kronholz H-L (1991) Direktradiographische Vergrösserung und Strahlenexposition. Radiologe 31: 413–417
Reuther G, Kronholz HL (1991) Direktradiographische Vergrösserung in Kombination mit digitaler Radiographie für die Skelettdiagnostik. (Direct radiological magnification with digital radiography for skeletal imaging.) Radiologe 31: 424–429
Müller ME, Allgöwer M, Schneider R, Willenegger H (1977) Manual der Osteosynthese. Springer, Berlin Heidelberg New York
McKibbin B (1978) The biology of fracture healing in long bones. J Bone Joint Surg [Br] 60: 150–162
Weissman BNW, Sledge CB (1986) Orthopedic radiology. Saunders, Philadelphia
Aegerter E, Kirkpatrick JA (1975) The repair of fractures. In: Orthopedic disease: physiology, pathology, radiology. Saunders, Philadelphia, chap 8
Heppenstall RB (1980) Fracture treatment and healing. Saunders, Philadelphia
McClements P, Templeton RW, Pritchard JJ (1961) Repair of a bone gap. J Ana 95: 616
Nicholls PJ, Berg E, Bliven FE, Kling M (1979) X-ray diagnosis of healing fractures in rabbits. Clin Orthop 142: 234–236
Müller-Miny H, Erlemann R, Baranowski D, Roos N, Peters PE (1991) Radiologische Beurteilung von Osteosynthesen. Radiologe 31: 179–185
Rosenthal H, Freier W, Galanski W (1991) Komplikationen der Osteosynthese im Röntgenbild. Radiologe 31: 186–191
Freyschmidt J, Fröhlich H, Rittmeyer K, Behrens S (1976) Neue Aspekte zur Vergrösserungstechnik in der chirurgischen Röntgendiagnostik. Arch Orthop Unfall-Chir 84: 67–76
Matsuda T (1955) Evaluation of direct enlargement radiography applied to the examination of the bone structure of adults. Studies on enlargement radiography. Nippon Acta Radiol 14: 767–774
Link TM, Gaubitz M, Lenzen H, Müller-Miny H, Schneider M, Peters PE (1993) Klinische Anwendung der Vergrösserungsradiographie bei rheumatologischen Fragestellungen. Z Rheumatol 52: 161–166
Tateno Y, Iinuma T, Takano M (1987) Computed radiography. Springer, Berlin Heidelberg New York
Lehmann KJ, Busch H-P, Sommer A, Georgi W (1991) Die Wertigkeit digitaler Bildaufnahmeverfahren bei der Skelettdiagnostik. Fortschr Röntgenstr 154: 286–291