Sự tiến triển của kháng thuốc trong các loại hình phân lập lâm sàng của Acinetobacter trong 6 năm

J. Ruiz1, M. L. Núñez1, J. Pérez1, E. Simarro1, L. Martínez-Campos1, J. Gómez2
1Laboratory of Microbiology, Hospital Universitario Virgen de la Arrixaca, Carretera El Palmar-Cartagena E-30120, Murcia, Spain, , ES
2Infectious Diseases Department, Hospital Universitario Virgen de la Arrixaca, Carretera El Palmar-Cartagena E-30120, Murcia, Spain, , ES

Tóm tắt

Mục tiêu của báo cáo này là nghiên cứu sự tiến triển của độ nhạy cảm của 1532 mẫu phân lập lâm sàng của Acinetobacter được thu thập trong vòng 6 năm. Nồng độ ức chế tối thiểu (MICs) của 15 loại kháng sinh đã được xác định cho tất cả các mẫu phân lập. Tỷ lệ phần trăm của các chủng kháng thuốc ở các năm 1991 và 1996 như sau: ciprofloxacin, 54,4% và 90,4%; tobramycin, 33% và 71,8%; amikacin, 21% và 83,7%; ampicillin cộng với sulbactam, 65,7% và 84,1%; ceftazidime, 57,4% và 86,8%; ticarcillin, 70% và 89,4%; trimethoprim cộng với sulfamethoxazole, 41,1% và 88,9%; và imipenem, 1,3% và 80%. MIC90 của ciprofloxacin, sparfloxacin, biapenem, meropenem, imipenem, cefepime, cefpirome, và rifampicin đối với 250 chủng Acinetobacter kháng imipenem lần lượt là >32, >32, 128, >256, 256, >256, 256, và 16 mg/l. Đối với các nhiễm trùng nặng, cần phải sử dụng colistin, loại kháng sinh duy nhất còn tác dụng in vitro.

Từ khóa

#Acinetobacter #kháng thuốc #nồng độ ức chế tối thiểu #chủng kháng #kháng sinh #colistin