Nội dung được dịch bởi AI, chỉ mang tính chất tham khảo
Các phương pháp tiếp cận châu Âu đối với quản lý đau sau phẫu thuật
Tóm tắt
Các khảo sát gần đây cho thấy một tỷ lệ lớn bệnh nhân vẫn nhận được liệu pháp giảm đau không đầy đủ sau phẫu thuật, vấn đề này có tính chất quốc tế. Mặc dù các nguyên tắc tổng quát của quản lý đau sau phẫu thuật ở Châu Âu tương tự như ở Bắc Mỹ, nhưng các bệnh nhân Châu Âu có thể nhận các liệu pháp rất khác nhau giữa các quốc gia. Điều này có thể phụ thuộc vào những truyền thống điều trị như việc sử dụng thường xuyên các kỹ thuật vùng ở các nước Bắc Âu, và cũng có thể phụ thuộc vào các quy định về điều dưỡng liên quan đến các kỹ thuật giảm đau như tiêm thuốc vào catheter ngoài màng cứng hoặc đường tiêm tĩnh mạch. Các hệ thống chăm sóc sức khỏe khác nhau, phân bổ quỹ và các mô hình tổ chức dịch vụ đau cấp tính (APS) cũng có thể ảnh hưởng đến quản lý đau. Tỷ lệ phẫu thuật được thực hiện theo hình thức điều trị trong ngày ở Hoa Kỳ cao hơn nhiều, điều này có ý nghĩa đối với việc cung cấp liệu pháp giảm đau ở môi trường tại nhà. Có bằng chứng ngày càng tăng cho thấy nhiều bệnh nhân phẫu thuật trong ngày gặp phải đau trung bình đến nặng kéo dài từ 2 đến 3 ngày, và cũng có thể thấy rằng quản lý đau ở nhóm này thường bị bỏ qua. Bài viết này thảo luận về một số khía cạnh của đau sau phẫu thuật từ góc nhìn Châu Âu. Dữ liệu từ một cuộc khảo sát châu Âu gồm 17 quốc gia, 105 bệnh viện cho thấy khoảng 7% trong số 1,2 triệu bệnh nhân đã trải qua phẫu thuật trong 1 năm nhận được giảm đau bằng opioid tủy sống. Thú vị thay, 12 loại opioid khác nhau và 8 loại không phải opioid đã được sử dụng thường xuyên cho giảm đau ngoài màng cứng. Các quy trình giám sát đối với bệnh nhân nhận opioid tủy sống rất khác nhau, điều này nhất quán với sự không chắc chắn chung quốc tế về nơi và cách giám sát những bệnh nhân này. Kỹ thuật kiểm soát đau bệnh nhân tĩnh mạch (IV PCA) cho đau sau phẫu thuật đã được sử dụng thường xuyên ở 67% các bệnh viện tham gia khảo sát châu Âu. Khoảng 11% bệnh nhân phẫu thuật đã nhận PCA cho giảm đau sau phẫu thuật, với 8 loại opioid khác nhau được sử dụng. Suy hô hấp đã được ghi nhận ở 17 trong số 89.000 bệnh nhân (0,02%) nhận PCA. Việc sử dụng các kỹ thuật vùng khác nhau đáng kể giữa các quốc gia Châu Âu. Ở các nước Bắc Âu, các kỹ thuật vùng như ngoài màng cứng và tủy sống thường được sử dụng cho cả phẫu thuật ngoại trú. Khái niệm về các nhà trị liệu đau có kỹ năng cộng tác để cung cấp giảm đau sau phẫu thuật tốt hơn trong khung tổ chức APS có vẻ như có thể áp dụng chung. Các mô hình APS đã được mô tả từ Hoa Kỳ, Vương quốc Anh, Đức, Thụy Sĩ và Thụy Điển. Mô hình của Hoa Kỳ, với các đội quản lý đau toàn diện dựa vào bác sĩ gây mê, khá hiệu quả nhưng vì quá chọn lọc và quá tốn kém, nên không thể chuyển giao sang Châu Âu. Một APS được giám sát bởi bác sĩ gây mê dựa vào y tá, trong đó đau được đánh giá ở mọi bệnh nhân trải qua phẫu thuật, đã được phát triển tại Thụy Điển. Đau trên 3 theo thang đo tương tự trực quan 10 điểm sẽ được điều trị kịp thời. Trong mô hình chi phí thấp này, vai trò của các bác sĩ gây mê là giảng dạy và đào tạo các y tá khoa, giám sát y tá đau cấp tính và lựa chọn bệnh nhân cho các liệu pháp đau đặc biệt như ngoài màng cứng, PCA và chẹn thần kinh ngoại biên. Tất cả các bác sĩ gây mê cao cấp (trưởng khoa) làm việc trong phòng mổ đều là một phần của APS này.