Máy phát điện nano không điện cực để thu hồi bụi

Energy Technology - Tập 10 Số 12 - 2022
Wanli Wang1,2, Dongfang Yang3, Zhenxing Huang4, Han Hu2, Licheng Wang5, Kai Wang1
1College of Electrical Engineering Weihai Innovation Research Institute Qingdao University Qingdao 266071 China
2State Key Laboratory of Heavy Oil Processing, College of Chemistry and Chemical Engineering, China University of Petroleum (East China), Qingdao 266580, China
3Xi'an Traffic Engineering Institute, Xi'an, 710300, China
4Qingdao Haier Washing Machine Co., Ltd Qingdao 26000 China
5School of Information Engineering, Zhejiang University of Technology, Hangzhou, 310023, China

Tóm tắt

Máy phát điện nano tribo điện (TENG) có những ưu điểm như chi phí thấp, trọng lượng nhẹ, cấu trúc đơn giản và hiệu suất cao. Đây là một công nghệ thu năng lượng cơ học tần số thấp đầy hứa hẹn, có tiềm năng lớn trong việc giải quyết khủng hoảng năng lượng và môi trường cũng như thúc đẩy các sản phẩm điện tử mới. TENG đã chứng minh được sự tự do thiết kế không thể thay thế so với các thiết bị điện tử truyền thống, bao gồm khả năng hoạt động độc lập với điện cực. Thực tế, dòng điện dịch chuyển là một dòng điện không thực, nó có thể hoạt động độc lập mà không cần điện cực. Hơn nữa, do thiếu “hiệu ứng chắn” của điện cực, năng lượng tiềm năng bề mặt có thể lớn hơn so với các thiết bị hoạt động bằng điện cực. Ở đây, dựa trên đặc tính điện áp cao của TENG mà không cần điện cực, ứng dụng trong việc loại bỏ bụi được khám phá, và một loại cục tẩy bảng điện tribo polyethylene không điện cực đã được trình diễn như một ví dụ, có thể hiệu quả kiềm chế sự bay của bụi phấn (giới hạn sự khuếch tán của bụi trong khoảng 0.648 m). Cục tẩy bảng với điện tích tĩnh có thể được nạp lại bởi TENG không điện cực mà không cần thiết lập điện cực. Thực tế, sự điện hóa tiếp xúc có thể xảy ra thường xuyên trong môi trường tự nhiên, và việc thiết kế thêm có thể đạt được mà không bị hạn chế bởi điện cực.

Từ khóa


Tài liệu tham khảo

10.1002/aenm.202003802

10.1016/j.nanoen.2012.01.004

10.1021/nn404614z

10.1038/ncomms4426

10.1002/inf2.12262

10.1007/s40820-021-00713-4

10.1002/adma.201305303

10.1002/adfm.202004714

10.1016/j.nanoen.2020.105434

10.1016/j.energy.2022.124933

10.1002/er.8671

10.3390/en15186665

10.1016/j.physrep.2018.11.001

10.1002/adma.201604961

10.1002/adfm.201706680

10.1038/s41467-019-10061-y

10.1016/j.nanoen.2019.104243

10.1016/j.nanoen.2020.105501

10.1002/aenm.202000965

10.1016/j.nanoen.2020.104968

10.1016/j.nanoen.2018.02.030

10.1016/j.nanoen.2019.02.051

10.1016/j.nanoen.2020.104513

10.1016/j.nanoen.2020.105051

10.1016/j.joule.2017.09.004

10.1063/1.5133023

10.1039/D0SC05145D

10.1021/acsnano.7b02321

10.1016/j.mattod.2016.12.001

10.1016/j.nanoen.2020.105357

10.1016/j.nanoen.2021.106762

10.1002/aenm.202100065

10.1088/1361-6633/ac0a50

10.1021/acsami.7b18732

10.1016/j.pnsc.2018.01.017

10.1016/j.nanoen.2019.103857

10.1021/acsami.9b18341

10.1038/s41467-020-15502-7

10.1016/j.nanoen.2014.12.013

10.1016/j.nanoen.2020.105387

10.1021/acsnano.5b06327

10.1289/ehp.1307984

10.1002/adfm.201903633

10.1016/j.nanoen.2018.12.025

10.1016/j.nanoen.2017.07.003

10.1021/acsnano.1c03230

10.1021/acsami.2c01077

10.1016/j.renene.2022.08.123

10.1063/5.0092074

10.1002/ER.8709

10.1016/j.nanoen.2017.03.011

10.1038/s41893-020-00628-9

10.1021/acsaem.1c03328

10.1021/acsnano.7b06451