PHÂN BỐ VÀ ĐỘ DI CHUYỂN CỦA LƯỢNG PHOTPHO TRONG ĐẤT CỎ VÀ RỪNG TẠI SASKATCHEWAN
Tóm tắt
Các biến đổi và tổn thất photpho trong đất đã được đo đạc ở ba hồ sơ đại diện cho một gradient môi trường từ đồng cỏ tới rừng: một mẫu đất Calcareous Brown, một mẫu đất Orthic Black và một mẫu đất Orthic Gray Luvisol. Một quy trình tách chiết tuần tự đã được sử dụng để đo các dạng khác nhau của cả photpho vô cơ (Pi) và photpho hữu cơ (Po) có trong các lớp đất. Độ di động của các anion phosphate và một số hợp chất (Po) được chọn (glucose 6-phosphate, choline phosphate và adenosine triphosphate) đã được ước lượng thông qua các thí nghiệm pha loãng đồng vị và cho thấy rằng tất cả các hợp chất Po được thử nghiệm có độ di động cao hơn so với các anion phosphate trong các lớp đất B; ngoài ra, Po chiếm ưu thế hơn Pi trong các dung dịch chiết xuất từ nước của các loại đất này. Một phương pháp tiếp cận khối lượng cân bằng (Chỉ số Phát sinh đất) kết hợp các tham số mật độ khối lượng theo chiều sâu trong việc đo thành phần của các lớp đất đã được sử dụng để tính toán tổn thất của Pt và apatite-P (HCl-Pi). Cả hai loại đất đồng cỏ đều có hành vi tương tự; chúng đã mất 500–550 kg P ha−1 (20%) lượng Pt ban đầu và 30% phần HCl-Pi ban đầu đã bị biến đổi thành các dạng P khác nhau hoặc bị tổn thất khỏi lớp đất. Tổn thất của Pt (3020 kg P ha−1: 41%) và của HCl-Pi (70%) cao hơn nhiều trong mẫu đất Gray Luvisol. Vì tổn thất của Pt không thể do sự rửa trôi của các anion phosphate qua hồ sơ, nên tầm quan trọng của Po trong việc rửa trôi P cần được xem xét cùng với sự chảy tràn bề mặt trong việc xác định số phận của P trong các loại đất này. Các từ khóa: Chỉ số phát sinh đất, cân bằng khối lượng P, phân đoạn P, rửa trôi P hữu cơ, độ di động của P