Nghiên cứu Hình ảnh Raman Đồng Phổ cho Thấy Quá Trình Phân Hủy Sinh Học Graphene do Các Đại Thực Bào Trong Cơ Thể

Advanced healthcare materials - Tập 2 Số 11 - Trang 1489-1500 - 2013
Chundayil Madathil Girish1, Abhilash Sasidharan1, Genekehal Siddaramana Gowd1, Shantikumar V. Nair1, Manzoor Koyakutty1
1Amrita Centre for Nanosciences & Molecular Medicine, Amrita Viswa Vidyapeetham University, Cochin, 682041, India.

Tóm tắt

Tóm tắt

Nghiên cứu này tập trung vào vấn đề quan trọng về khả năng phân hủy sinh học của graphene dưới điều kiện in vivo. Các dấu hiệu đặc trưng của graphene trong phổ Raman được sử dụng để hình ảnh hóa ba chiều (3D) sự phân bố của nó trong phổi, gan, thận và lách của chuột, đồng thời xác định sự phát triển dần dần của rối loạn cấu trúc, diễn ra qua một khoảng thời gian 3 tháng, như được chỉ ra bởi sự hình thành băng D' liên quan đến khuyết tật, sự mở rộng đường nét của dải D và G, sự tăng tỷ lệ ID/IG và sự giảm cường độ tổng thể. Trước khi tiêm, graphene chức năng carboxyl có kích thước chiều ngang ∼200 nm được phân tán tốt trong môi trường nước, nhưng 24 giờ sau khi tiêm, các cụm lớn với kích thước lên tới 10 μm được phát hiện trong nhiều cơ quan khác nhau. Sử dụng phương pháp hình ảnh cụm Raman, sự phát triển tạm thời của rối loạn được phát hiện từ ngày thứ 8 trở đi, bắt đầu từ các cạnh và phát triển vào trong trong khoảng thời gian 3 tháng. Sự phân hủy sinh học được thấy rõ ở graphene bị đa thực bào của các đại thực bào gắn với mô và các nghiên cứu biểu hiện gen của các cytokine pro-inflammatoiry cho thấy khả năng đáp ứng miễn dịch hoại tử. Ngoài ra, các nghiên cứu in vitro được tiến hành trên các dòng tế bào đại thực bào cũng cho thấy sự phát triển của rối loạn cấu trúc trong graphene bị nuốt chửng, nhấn mạnh vai trò của các đại thực bào trong quá trình phân hủy sinh học. Đây là báo cáo đầu tiên cung cấp bằng chứng rõ ràng về sự phân hủy sinh học graphene in vivo và những kết quả này có thể thay đổi hoàn toàn quan điểm về các ứng dụng y sinh tiềm năng của graphene.

Từ khóa


Tài liệu tham khảo

10.1126/science.1102896

10.1002/anie.200901678

10.1002/smll.201002009

10.1002/adfm.201100078

10.1021/nl100996u

10.1021/bc200397j

10.1021/nn200500h

10.1021/nn204625e

10.1039/C2CS35342C

Koyakutty M., 2012, Graphene: Synthesis, Properties and Phenomena

Yang K., 2012, Small

10.1039/c1nr10172b

10.1002/smll.201102393

10.1002/adhm.201200248

10.1021/nn1024303

10.1021/nl202515a

10.1007/s11671-010-9751-6

10.1016/j.carbon.2010.11.005

10.1098/rsta.2004.1452

10.1016/j.ssc.2007.03.052

10.1021/nl904286r

10.1021/nn103265h

10.1073/pnas.0707654105

10.1039/B613962K

10.1007/s12034-008-0090-5

10.1103/PhysRevB.82.125429

10.1021/nl201432g

10.1063/1.3587798

10.1088/0953-8984/22/33/334204

10.1021/jp900791y

10.1109/TPAMI.2002.1017616

Kagan V. E., 2010, Nature, 5, 354

10.1371/journal.pone.0030923

10.1089/jamp.2009.0797

10.1002/adfm.200700416

Witmer‐Pack M. D., 1993, J. Cell Sci., 105, 965, 10.1242/jcs.105.4.965

10.1002/adfm.201200869

10.1103/PhysRevB.61.14095

10.1016/j.carbon.2012.06.008