So sánh hai loại hóa trị nội phúc mạc sau phẫu thuật cắt bỏ hoàn toàn khối u của bệnh lý di căn phúc mạc đại trực tràng

Annals of Surgical Oncology - Tập 14 - Trang 509-514 - 2006
Dominique Elias1, Emmanuel Benizri1, Daniela Di Pietrantonio1, Paola Menegon1, David Malka1, Bruno Raynard1
1Département de Chirurgie Oncologique, Institut Gustave Roussy, Villejuif, France

Tóm tắt

Gần đây, sự kết hợp giữa phẫu thuật cắt bỏ triệt để hoàn toàn tiếp theo ngay sau đó là hóa trị nội phúc mạc đã đạt được kết quả chữa bệnh ở một số bệnh nhân mắc phải di căn phúc mạc (PC). Hiện nay, tác động dự đoán của sự hoàn thiện trong cắt bỏ khối u đã được thiết lập là rất cao. Tuy nhiên, hai chế độ hóa trị nội phúc mạc khác nhau đã được đề xuất: hóa trị nội phúc mạc sau phẫu thuật sớm (EPIC), kéo dài 5 ngày và duy trì nhiệt độ cơ thể bình thường, và hóa trị nội phúc mạc dưới nhiệt độ cao trong phẫu thuật (IPCH). Đến nay, kết quả của hai phương pháp này chưa bao giờ được so sánh. Mục tiêu của nghiên cứu là so sánh các biến chứng và kết quả điều trị của EPIC và IPCH sau phẫu thuật cắt bỏ hoàn toàn khối u của PC đại trực tràng. Hai mươi ba bệnh nhân liên tiếp mắc PC đại trực tràng đã được chọn dựa trên tính hoàn thiện của phẫu thuật cắt bỏ và theo dõi đủ. Họ đã nhận được hóa trị IPCH với oxaliplatin (460 mg/m²) trong 2 l/m² dung dịch dextrose, kéo dài 30 phút ở nhiệt độ phúc mạc 43°C, sử dụng kỹ thuật coliseum. Chúng tôi đã chọn lại một cách hồi cứu cẩn thận 23 bệnh nhân nữa, để phục vụ cho mục đích so sánh, mắc cùng một bệnh, với các đặc điểm gần gũi nhất có thể, nhưng đã được điều trị trước đó bằng EPIC (mitomycin C 10 mg/m² vào ngày 0 và 5-FU 650 mg/m² từ ngày 1 đến 4), trong 1 l/m² dung dịch ringer lactate. Dữ liệu liên quan đến hai nhóm này đã được xác minh có tính chất dự prospect, nhưng nghiên cứu này là một phân tích so sánh lịch sử. Hai nhóm này có thể so sánh về mặt thống kê, ngoại trừ thời gian phẫu thuật kéo dài thêm 68 phút cho nhóm IPCH. Tử vong và bệnh tật không có sự khác biệt đáng kể, ngay cả khi có hai trường hợp tử vong xảy ra ở nhóm EPIC và không có trường hợp nào ở nhóm IPCH. Tuy nhiên, tỷ lệ rò rỉ tiêu hóa cao hơn (P = 0.02) ở nhóm EPIC (26%) so với nhóm IPCH (0%). Tỷ lệ sống sót toàn bộ (OS) cao hơn ở nhóm IPCH, (54% sau 5 năm so với 28% cho EPIC), nhưng không đáng kể (P = 0.22). Tái phát di căn phúc mạc xảy ra nhiều hơn (P = 0.03) ở nhóm EPIC (57%) so với nhóm IPCH (26%). Nghiên cứu này cung cấp các luận cứ mạnh mẽ cho thấy IPCH với oxaliplatin được dung nạp tốt hơn so với EPIC với mitomycin C và 5-FU, và hiệu quả gấp đôi trong việc chữa trị di căn phúc mạc còn sót lại có kích thước dưới 1 mm.

Từ khóa


Tài liệu tham khảo

Glehen O, Kwiatkowski F, Sugarbaker PH, Elias D, Levine EA, De Simone M, Barone R, et al. Cytoreductive surgery combined with intraperitoneal chemotherapy for management of peritoneal carcinomatosis from colorectal cancer: a multi-institutional study. J Clin Oncol 2004; 22:3284–92 Elias D, Delperro JR, Sideris L, Benhamou E, Pocard M, Baton O, et al. Treatment of peritoneal carcinomatosis from colorectal cancer: impact of complete cytoreductive surgery and difficulties in conducting randomised trials. Ann Surg Oncol 2004; 11:518–21 Curtin JP, Shapiro F. Adjuvant therapy in gynecologic malignancies. Surg Oncol Clin North Am 1997; 6:613–30 Bertelsen K. Tumor reduction surgery and long-term survival in advanced ovarian cancer: a DACOVA study. Gynecol Oncol 1990; 38:203–9 Sugarbaker PH, Cuniffe W, Belliveau JF, de Bruin E, Graves T. Rationale for perioperative intraperitoneal chemotherapy as a surgical adjuvant for gastrointestinal malignancy. Reg Cancer Treat 1988; 1:66–79 Elias D, Ouellet JF. Intraperitoneal chemohyperthermia. Rationale, technique, indications, and results. Surg Oncol Clin North Am 2001; 10:915–33 Verwaal VC, van Ruth S, de Bree E, et al. Randomized trial of cytoreduction and hyperthermic intraperitoneal chemotherapy versus systemic chemotherapy and palliative surgery in patients with peritoneal carcinomatosis from colorectal cancer. J Clin Oncol 2003; 21:3737–43 Elias D, Blot F, El Otmany A, Antoun S, Lasser P, Boige V, et al. Curative treatment of peritoneal carcinomatosis arising from colorectal cancer by complete resection and intraperitoneal chemotherapy. Cancer 2001; 92:71–6 Elias D, Sideris L, Pocard M, Edé C, Ben Hassouna D, Ducreux M, et al. Efficacy of intraperitoneal chemohyperthermia with oxaliplatin in colorectal peritoneal carcinomatosis. Preliminary results in 24 patients. Ann Oncol 2004; 15:781–5 Sugarbaker PH. Intraperitoneal chemotherapy and cytoreductive surgery for the prevention and treatment of peritoneal carcinomatosis and sarcomatosis. Semin Surg Oncol 1998; 14:254–61 Sugarbaker PH. Peritonectomy procedures. Ann Surg 1995; 221:29–42 Elias D, Antoun A, Goharin A, El Otmany A., Puizillout JM, Lasser P. Research on the best chemohyperthermia technique for treatment of peritoneal carcinomatosis after complete resection. Int J Surg Invest 2000; 1:431–9 Elias D, Bonnay M, Puizillou JM, Antoun S, Demirdjian S, El Otmany A, et al. Heated intraoperative intraperitoneal oxaliplatin after complete resection of peritoneal carcinomatosis: pharmacokinetic and tissue distribution. Ann Oncol 2002; 13:267–272 Sugarbaker PH. Intraperitoneal chemotherapy for treatment and prevention of peritoneal carcinomatosis and sarcomatosis. Dis Colon Rectum 1994; 37(Suppl): S115–22