So sánh đánh giá tại giường và từ xa theo thang điểm NIHSS ở bệnh nhân trong giai đoạn cấp tính của đột quỵ

Springer Science and Business Media LLC - Tập 47 - Trang 828-832 - 2017
A. M. Alasheev1, A. Yu. Andreev1, Yu. V. Gonysheva1, M. N. Lagutenko1, G. I. Lipin1, E. E. Lokteva1, O. Yu. Lutskovich1, A. V. Mamonova1, E. V. Prazdnichkova1, A. A. Belkin1
1Sverdlovsk Regional Clinical Hospital No. 1, Ekaterinburg, Russia

Tóm tắt

Mục tiêu – Việc đánh giá từ xa theo thang điểm NIHSS được thực hiện bởi các bác sĩ thần kinh sử dụng hội nghị truyền hình (VC) chất lượng cao được khuyến cáo khi không có chuyên gia thực hiện đánh giá trực tiếp bên giường bệnh. Khuyến cáo này dựa trên một số lượng nhỏ các nghiên cứu không hoàn toàn tránh khỏi các sai số hệ thống liên quan đến tính chủ quan của thang điểm NIHSS. Mục đích của nghiên cứu này là nhằm giảm thiểu những sai số này. Tài liệu và phương pháp. Sáu bác sĩ thần kinh có kinh nghiệm đã tham gia nghiên cứu và làm việc thành cặp trong 15 đôi, cùng 90 bệnh nhân với tình trạng hậu đột quỵ ổn định trong không quá 48 giờ sau khi xuất hiện triệu chứng. Mỗi cặp bác sĩ đánh giá sáu bệnh nhân. Mỗi bệnh nhân được đánh giá độc lập một lần tại giường và một lần từ xa. Trong quá trình đánh giá từ xa sử dụng VC chất lượng cao, bác sĩ thần kinh được hỗ trợ bởi một y tá tại giường bệnh của bệnh nhân. Việc phân bổ bệnh nhân theo cặp bác sĩ và các trình tự đánh giá tại giường và từ xa đã được ngẫu nhiên hóa theo khối. Sự so sánh đáng kể giữa các đánh giá được đánh giá bằng hệ số κ và tỷ lệ bệnh nhân có sự khác biệt giữa tổng điểm NIHSS không quá ba điểm. Kết quả. Sự khác biệt trong đánh giá NIHSS không quá ba điểm được ghi nhận ở 85,6% (95% CI 76,6–92,1%) trong số bệnh nhân. Do đó, trong thực tế, đánh giá từ xa khác biệt lâm sàng so với đánh giá tại giường ở một trong năm bệnh nhân. Giá trị κ sử dụng trọng số bình phương cho tổng điểm thang là 0,91 (95% CI 0,87–0,95). Các phân thang ít đồng thuận nhất là: thực hiện lệnh (ϰ = 0,46), liệt cơ mặt (ϰ = 0,43), và thất điều chi (ϰ = 0,27). Đánh giá từ xa tiêu tốn thời gian nhiều hơn so với đánh giá tại giường: 8 [7, 9] phút so với 6 [5, 8] phút (p < 0,001). Kết luận. Đánh giá từ xa theo thang điểm NIHSS của bệnh nhân đột quỵ sử dụng VC chất lượng cao có thể so sánh với đánh giá tại giường, mặc dù cần thêm đánh giá để xác định tính phù hợp cho thực hành lâm sàng.

Từ khóa

#NIHSS #đột quỵ #hội nghị truyền hình #đánh giá từ xa #đánh giá tại giường #tiêu chuẩn lâm sàng

Tài liệu tham khảo

NIH Stroke Scale (freely distributed version), www.ninds.nih.gov/doctors/NIH_Stroke_Scale.pdf, acc. Jan. 9, 2015. E. Jauch, J. Saver, H. Adams, et al., “Guidelines for the early management of patients with acute ischemic stroke: a guideline for healthcare professionals from the American Heart Association/American Stroke Association,” Stroke, 44, No. 3, 870–947 (2013), doi: https://doi.org/10.1161/str.0b013e318284056a. L. Goldstein, C. Bertels, and J. Davis, “Interrater Reliability of the NIH Stroke Scale,” Arch. Neurol., 46, No. 6, 660–662 (1989), doi: https://doi.org/10.1001/archneur.1989.00520420080026. L. Goldstein and G. Samsa, “Reliability of the National Institutes of Health Stroke Scale: extension to non-neurologists in the context of a clinical trial,” Stroke, 28, No. 2, 307–310 (1997), doi: https://doi.org/10.1161/01.str.28.2.307. L. Schwamm, R. Holloway, P. Amarenco, et al., “A review of the evidence for the use of telemedicine within stroke systems of care: a scientific statement from the American Heart Association/American Stroke Association,” Stroke, 40, No. 7, 2616–2634 (2009), doi: https://doi.org/10.1161/strokeaha.109.192360. S. Shafqat, J. Kvedar, M. Guanci, Y. Chang, and L. Schwamm, “Role for telemedicine in acute stroke: feasibility and reliability of remote administration of the NIH Stroke Scale,” Stroke, 30, No. 10, 2141–2145 (1999), doi: https://doi.org/10.1161/01.str.30.10.2141. R. Handschu, R. Littmann, U. Reulbach, et al., “Telemedicine in emergency evaluation of acute stroke: interrater agreement in remote video examination with a novel multimedia system,” Stroke, 34, No. 12, 2842–2846 (2003), doi: https://doi.org/10.1161/01.str.0000102043.70312.e9. B. C. Meyer, P. D. Lyden, L. Al-Khoury, et al., “Prospective reliability of the STRokE DOC wireless/site independent telemedicine system,” Neurology, 64, No. 6, 1058–1060 (2005). S. L. Plavinskii, Biostatistics: Planning, Processing, and Presentation of Results of Biomedical Studies Using the SAS System, SPbMAPO Press, St. Petersburg (2005). J. Sim and C. Wright, “The kappa statistic in reliability studies: use, interpretation, and sample size requirements,” Phys. Ther., 85, No. 3, 257–268 (2005). R. Van Hooff, M. Cambron, R. Van Dyck, et al., “Prehospital unassisted assessment of stroke severity using telemedicine: a feasibility study,” Stroke, 44, No. 10, 2907–2909 (2013), doi: https://doi.org/10.1161/strokeaha.113.002079. F. I. Badaev, A. M. Alasheev, A. A. Belkin, et al., “Videoconferencing interference during robotic neuroresuscitation teleconsultations,” Intens. Terap. Anestez., No. 1, 36–39 (2014).