Nevus xanh tế bào với sự bất thường (nevus xanh tế bào không điển hình): một nghiên cứu lâm sàng - bệnh học về chín trường hợp

Journal of Cutaneous Pathology - Tập 25 Số 5 - Trang 252-258 - 1998
Tien Anh Tran1, A. J. Carlson1, Poelinda Colis Basaca1, Martín C. Mihm1,2
1Division of Dermatopathology and Dermatology, Department of Pathology, Albany Medical College, Albany, New York
2Division of Dermatopathology, Department of Pathology, Massachussets General Hospital, Boston, Massachussets, USA

Tóm tắt

Nevus xanh tế bào không điển hình (ACBN) có những đặc điểm lâm sàng - bệnh học trung gian giữa nevus xanh tế bào điển hình (CBN) và nevus xanh tế bào ác tính hiếm gặp (MBN)/melanoma ác tính (MM) phát sinh từ một CBN. Trong bài báo này, chúng tôi báo cáo 9 trường hợp ACBN. Các bệnh nhân đều là người da trắng (6 nữ và 3 nam) với độ tuổi trung bình và độ tuổi trung vị là 47/51 tuổi. Hai bệnh nhân than phiền về những thay đổi gần đây và khoảng một nửa trong số các khối u này nằm ở mông hoặc da đầu, có đường kính trung bình là 1,5 cm. Về mặt mô học, chúng được đặc trưng bởi sự bất thường kiến trúc (biên giới xâm lấn và/hoặc không cân xứng) và/hoặc bất thường tế bào học (siêu tế bào, đa hình nhân, siêu sắc, dấu hiệu phân bào, và/hoặc hoại tử). Đánh giá sự biểu hiện của 3 dấu hiệu mô cho thấy sự nhuốm màu của tế bào đơn lẻ với sản phẩm oncogene bcl-2 rất hiếm, và một chỉ số nhân lên là 23±19 và 39±30 tế bào/10 trường có độ phóng đại cao với kháng thể PCNA và Mib-1, tương ứng. Không phát hiện sự khác biệt có ý nghĩa khi so sánh các mức độ biểu hiện trên với một nhóm chứng gồm 15 CBN; tuy nhiên, ACBN có xu hướng cho thấy chỉ số nhân lên cao hơn theo PCNA và Mib-1, cũng như tỷ lệ phân bào cao hơn đáng kể (1/10 HPF so với 0; p=0.001). Phân tích nội dung DNA cho thấy sự không nhớt của DNA trong cả hai nhóm. Dữ liệu theo dõi của 9 trong số 9 bệnh nhân cho thấy 1 bệnh nhân đã chết không có bệnh và 8 bệnh nhân sống không có bệnh (theo dõi trung bình/giá trị trung vị 42/32 tháng, dao động từ 15-96 tháng). Trong suốt thời gian theo dõi này, không bệnh nhân nào đã trải qua tái phát tại chỗ hay di căn hạch bạch huyết hoặc di căn tạng. Những phát hiện này làm nổi bật sự tương đồng gần gũi giữa ACBN với lịch sử tự nhiên của CBN. Tuy nhiên, nhiều đặc điểm mô học phân biệt của ACBN cũng là những đặc điểm của MBN. Vì những đặc điểm lâm sàng - bệnh học trung gian này, ACBN cần được xem xét kỹ lưỡng và theo dõi lâu dài.

Từ khóa


Tài liệu tham khảo

10.1007/BF01944931

10.1002/1097-0142(194901)2:1<28::AID-CNCR2820020105>3.0.CO;2-N

10.1002/1097-0142(196803)21:3<393::AID-CNCR2820210309>3.0.CO;2-K

10.1097/00000372-199506000-00003

10.1001/archderm.126.10.1330

10.1159/000251028

Barnhill R., 1995, Pathology of melanocytic nevi and malignant melanoma, 131

Goette KD, 1980, Acypital cellular blue nevus, J Asso Milit Dermatol, 6, 6

10.1002/path.1700940203

10.1097/00000372-198808000-00002

10.1016/0046-8177(93)90266-J

10.1016/S0190-9622(88)70227-3

Ballouk F, 1993, Evaluation of the prognostic indicators in squamous carcinoma of the vulva including nuclear DNA content, Mod Pathol, 6, 371

Boi S, 1989, Malignant cellular blue nevus with true nodal metastasis, Pathologica, 81, 345

Boi S, 1991, Malignant blue nevus. Report of four new cases and review of the literature, Histopath, 6, 427

10.1002/1097-0142(19910515)67:10<2653::AID-CNCR2820671041>3.0.CO;2-U

10.1016/0923-1811(92)90018-7

Barnhill R., 1995, Pathology of Melanocytic Nevi and Malignant Melanoma, 153

10.1002/1097-0142(195301)6:1<1::AID-CNCR2820060102>3.0.CO;2-C

Lund H, 1962, Melanotic tumors of the skin. Atlas of Tumor Pathology

Tron VA, 1995, Immunohistochemical analysis of Bcl‐2 protein regulation in cutaneous melanoma, Am J Pathol, 146, 643

Pannizzon R, 1996, Maligant blue nevus with distant subcutaneous metastasis: evaluation of malignancy with Mib‐1 proliferative activity, J Cutan Pathol, 23, 87