Có thể sử dụng số lượng tế bào đơn nhân bạch huyết ngoại vi như một chỉ thị về sự kháng thuốc kháng retrovirus trong dịch não tủy?

Journal of NeuroVirology - Tập 10 - Trang 38-43 - 2004
Bruce J. Brew1,2, Louise Pemberton3, John Ray4
1Department of Neurology, St. Vincent’s Hospital, University of New South Wales, Australia
2Department of HIV Medicine, St. Vincent’s Hospital, University of New South Wales, Australia
3Centre for Immunology, St. Vincent’s Hospital, University of New South Wales, Australia
4Clinical Pharmacology and Toxicology, St. Vincent’s Hospital, University of New South Wales, Australia

Tóm tắt

Kháng thuốc kháng retrovirus trong bệnh virus suy giảm miễn dịch ở người (HIV) có thể không tương đồng giữa máu và dịch não tủy (CSF). Tuy nhiên, hiện chưa có phương pháp nào giúp xác định không xâm lấn bệnh nhân có khả năng chứa HIV kháng thuốc trong dịch não tủy. Các tế bào đơn nhân được biết đến là có khả năng di chuyển qua não và nguyên bào thần kinh bên mạch máu được coi là thường xuyên ‘thay thế’ từ các tế bào đơn nhân được sinh ra từ tủy xương. Các tế bào đơn nhân thiếu một số kinaza cần thiết để chuyển hóa một số thuốc kháng retrovirus, do đó có thể các tế bào đơn nhân có thể chuyển thuốc kháng retrovirus đến não. Tuy nhiên, số lượng tế bào đơn nhân thấp trong máu ngoại vi sẽ được kỳ vọng dẫn đến sự giảm lưu thông và thay thế của các tế bào đơn nhân, với việc cung cấp thuốc ít hơn đến não. Các tác giả đã giả thuyết rằng điều này sẽ làm tăng khả năng có HIV kháng thuốc trong hệ thần kinh trung ương. Để kiểm tra điều này, 24 mẫu dịch não tủy và huyết tương tương thích đã được thu thập và lưu trữ từ những bệnh nhân được điều trị bằng thuốc ức chế transcriptase đảo ngược tương tự nucleoside đã được đánh giá về sự kháng gen. Những dịch não tủy có chứng cứ về đột biến kháng thuốc được so sánh với những mẫu không có, về số lượng tế bào đơn nhân máu ngoại vi, hemoglobin, số lượng tế bào CD4 và việc sử dụng zidovudine (ZDV). Các phân tích tương tự được thực hiện trên các mẫu huyết tương. Có 11 dịch não tủy có chứng cứ về đột biến kháng thuốc. Số lượng tế bào đơn nhân máu ngoại vi thấp đáng kể hơn trong nhóm kháng ở dịch não tủy (0.29 ± 0.16) so với (0.52 ± 0.21) × 109/L (P < .001). Không có sự khác biệt giữa các nhóm dựa trên hemoglobin, số lượng tế bào CD4, số lượng bạch cầu toàn phần, hoặc sử dụng ZDV. Không có sự khác biệt giữa các mẫu huyết tương kháng và nhạy cảm theo số lượng tế bào đơn nhân máu ngoại vi. Để kiểm tra thêm giả thuyết, các tác giả đã xác định nồng độ ZDV, stavudine và abacavir trong các tế bào đơn nhân sau khi mỗi thuốc được thêm vào nuôi cấy tế bào đơn nhân. Có sự suy giảm đáng kể nồng độ của từng loại thuốc trong dịch nuôi cấy, ngụ ý rằng nó đã được ‘tiếp nhận’ bởi các tế bào đơn nhân. Những dữ liệu sơ bộ này gợi ý rằng các tế bào đơn nhân máu ngoại vi có thể đóng vai trò quan trọng trong việc chuyển giao các thuốc kháng retrovirus đến não và sự phát triển kháng thuốc.

Từ khóa

#HIV #kháng retrovirus #dịch não tủy #tế bào đơn nhân #kháng thuốc

Tài liệu tham khảo

Antinori A, Giancola ML, Grisetti S, Soldani F, Alba L, Liuzzi G, Amendola A, Capobianchi M, Tozzi V, Perno CF (2002). Factors influencing virological response to antiretroviral drugs in cerebrospinal fluid of advanced HIV-1-infected patients. AIDS 16: 1867–1876. Aquaro S, Calio R, Balzarini J, Bellocchi MC, Garaci E, Perno CF (2002). Macrophages and HIV infection: therapeutical approaches toward this strategic virus reservoir. Antiviral Res 55: 209–255. Aulitzky WE, Tilg H, Vogel W, et al (1991). Acute hematologic effects of interferon alpha, interferon gamma, tumor necrosis factor alpha and interleukin 2. Ann Hematol 62: 25–31. Boase S, Miners JO (2002). In vitro-in vivo correlations for drugs eliminated by glucuronidation: investigations with the model substrate zidovudine. Br J Clin Pharmacol 54: 493–503. Brew BJ (2001). AIDS dementia complex. In: HIV neurology. Oxford, UK: Oxford University Press, pp 53–90. Cunningham P, Smith D, Satchell C, Cooper DA, Brew BJ (2000). Evidence for independent development of reverse transcriptase inhibitor resistance patterns in the cerebrospinal fluid. AIDS 14: 1949–1954. Gao WY, Agbaria R, Driscoll JS, Mitsuya H (1994). Divergent anti-human immunodeficiency virus activity and anabolic phosphorylation of 2′,3′-dideoxynucleoside analogs in resting and activated human cells. J Biol Chem 269: 12633–12638. Gartner S, Liu Y (2002). Insights into the role of immune activation in HIV neuropathogenesis. J NeuroVirol 8: 69–75. Hoggard PG, Kewn S, Barry MG, Khoo SH, Back DJ (1997). Effects of drugs on 2′,3′,-dideoxy-2′,3′-dideohydrothymidine phosphorylation in vitro. Antimicrob Agents Chemother 41: 1231–1236. Huisman MT, Smit JW, Crommentuyn KM, Zelcer N, Wiltshire HR, Beijnen JH, Schinkel AH (2002). Multidrug resistance protein 2 (MRP2) transports HIV protease inhibitors, and transport can be enhanced by other drugs. AIDS 16: 2295–2301. Kerr SJ, Armati PJ, Pemberton LA, Smythe G, Tattam B, Brew BJ (1997). Kynurenine pathway inhibition reduces toxicity of HIV-infected macrophages. Neurology 49: 1671–1681. Lanier RE, Sturge G, McClernon D, Brown S, Halman M, Sacktor N, McArthur J, Atkinson JH, Clifford D, Price RW, Simpson D, Torres G, Catalan J, Marder K, Power C, Hall C, Romero C, Brew BJ (2001). HIV-1 reverse transcriptase sequence and HIV-1 RNA response to abacavir in plasma and CSF of subjects with AIDS dementia complex. AIDS 15: 747–751. Mir N, Costello C, Luckit J, Lindley R (1989). HIV-disease and bone marrow changes: a study of 60 cases. Eur J Haematol 42: 339–343. Moore KHP, Barrett JE, Shaw S, et al (1999). The pharmacokinetics of lamivudine phosphorylation in peripheral blood mononuclear cells from patients infected with HIV-1. AIDS 13: 2239–2250. O’Brien WA, Namazi A, Kalhor H, Mao S-H, Zack JA, Chen ISY (1994). Kinetic of human immunodeficiency virus type 1 reverse transcriptase in blood mononuclear phagocytes are slowed by limitations of nucleotide precursors. J Virol 68: 1258–1263. Sacktor N, Tarwater PM, Skolasky RL, McArthur JC, Selnes OA, Becker J, Cohen B, Miller EN; Multicenter for AIDS Cohort Study (MACS) (2001). CSF antiretroviral drug penetrance and the treatment of HIV-associated psychomotor slowing. Neurology 57: 542–544. Shah VP, Midha KK, Findlay JW, Hill HM, Hulse JD, McGilveray IJ, McKay G, Miller KJ, Patnaik RN, Powell ML, Tonelli A, Viswanathan CT, Yacobi A (2000). Bioanalytical method validation—a revisit with a decade of progress. Pharm Res 17: 1551–1557. Stein DS, Moore KH (2001). Phosphorylation of nucleoside analog antiretrovirals: a review for clinicians. Pharmacotherapy 21: 11–34. Treacy M, Lai L, Costello C, Clark A (1987). Peripheral blood and bone marrow abnormalities in patients with HIV related disease. Br J Haematol 65: 289–294. Venturi G, Catucci M, Romano L, Corsi P, Leoncini F, Valensin PE, Zazzi M (2000). Antiretroviral resistance mutations in human immunodeficiency virus type 1 reverse transcriptase and protease from paired cerebrospinal fluid and plasma samples. J Infect Dis 181: 740–745.