Nội dung được dịch bởi AI, chỉ mang tính chất tham khảo
Xác định đồng và kẽm ở nồng độ vết bằng phương pháp quang phổ hấp thụ nguyên tử sau khi chiết xuất và tiền cô lập đồng thời lên zeolit natrolite đã biến đổi
Tóm tắt
Nghiên cứu này đánh giá việc sử dụng zeolit natrolite tự nhiên đã được biến đổi như một vật liệu hấp phụ để tách biệt và tiền cô lập các ion ở nồng độ vết. Chúng tôi đã khảo sát khả năng của zeolit natrolite tự nhiên đã biến đổi trong việc tách biệt và tiền cô lập đồng thời các ion đồng và kẽm ở nồng độ vết. Chúng tôi đã phát triển một phương pháp đơn giản, nhanh chóng, chọn lọc, nhạy cảm và tiết kiệm chi phí cho việc tách biệt và tiền cô lập đồng thời các ion đồng và kẽm ở nồng độ vết trong môi trường nước sử dụng 2-(5-bromo-2-pyridylazo)-5-diethylaminophenol (5-Br-PADAP) làm thuốc thử phân tích. Quá trình hấp phụ diễn ra hoàn toàn trong khoảng pH 7.5-9.5, trong khi quá trình giải hấp xảy ra ngay lập tức với 5.0 mL axit nitric 2 mol L-1. Đường tuyến tính được duy trì trong khoảng từ 0.05-6.0 μg mL-1 cho đồng và 0.02-1.5 μg mL-1 cho kẽm trong dung dịch cuối. Mười lần xác định lặp lại với nồng độ 1.0 μg mL-1 đồng và 0.5 μg mL-1 kẽm trong một hỗn hợp cho phép đạt được giá trị hấp thụ trung bình là 0.1687 và 0.2788 với độ lệch chuẩn tương đối lần lượt là ±1.2% và ±1.3%. Giới hạn phát hiện là 0.03 ng mL-1 cho Cu(II) và 0.006 ng mL-1 cho Zn(II) trong dung dịch ban đầu (3σbl/m). Các tham số khác nhau, chẳng hạn như ảnh hưởng của pH, lưu lượng, thể tích phá vỡ và sự nhiễu loạn của một số lượng lớn anion và cation, đã được nghiên cứu và phương pháp đề xuất đã được sử dụng để xác định các ion kim loại này trong nước cũng như trong các mẫu chuẩn (ví dụ: Nippon Keikinzoku Kogyo (NKK) CRM, No. 916 và No. 920 hợp kim nhôm, Viện Nghiên cứu Môi trường Quốc gia (NIES) mẫu No. 1 cây tiêu và mẫu No. 2 bùn ao). Việc xác định các ion kim loại này trong các mẫu chuẩn cho thấy phương pháp đề xuất có độ chính xác tốt (hồi phục > 97%).
Từ khóa
Tài liệu tham khảo
M. Soylak, L. Elci, U. Divrikli, and M. Dogan, Talanta, 2002, 56, 565.
J. S. Fritz, “Analytical Solid-Phase Extraction”, 1999, John Wiley and Sons, Inc., New York.
J. N. King and J. S. Fritz, Anal. Chem., 1985, 57, 1016.
G. A. Junk, M. J. Avery, and J. J. Richard, Anal. Chem., 1998, 60, 1347.
K. G. Miller and C. F. Poole, J. High Resolution Chromatogr., 1994, 17, 125.
J. J. Sun and J. S. Fritz, J. Chromatogr., A, 1990, 522, 95.
C. H. Marvin, I. D. Brindle, C. D. Hall, and M. Chiba, Anal. Chem., 1992, 62, 1495.
G. A. Junk and J. J. Richard, Anal. Chem., 1988, 60, 451.
D. W. Breck, “Zeolite Molecular Sieves”, 1974, John Wiley and Sons, Inc., New York.
J. Weikamp and L. Puppe, “Catalysis and Zeolites Fundamental and Applications”, 1999, Springer-Verlag, Berlin, Heidelberg, New York.
S. A. Sayed, Zeolites, 1996, 17, 261.
S. Razee and T. Masujima, Anal. Chim. Acta, 2002, 464, 1.
A. Corma, F. P. Lois, P. Viruela, and C. Ziovich-Wilson, J. Am. Chem. Soc., 1994, 116, 134.
A. Potdar, A. Shukla, and A. Kumar, J. Membr. Sci., 2002, 210, 209.
B. Sulikowski, J. Find, H. G. Karge, and D. Herein, Zeolites, 1997, 19, 395.
R. A. W. Dryfe, P. Hayes, and S. M. Holmes, Analyst, 2001, 126, 733.
A. Walcarius, P. Mariaulle, and L. Lamberts, Electro. Chem., 1999, 463, 100.
I. Narin, M. Soylak, L. Elci, and M. Dogan, Talanta, 2000, 52, 1041.
I. Luska, J. Krupick, and P. A. Leclercq, J. High Resoltuion Chromatogr., 1989, 12, 577.
M. Bagheri, M. H. Mashhadizadeh, and S. Razee, Talanta, 2003, 60, 839.
M. Soylak and L. Elci, Int. J. Environ. Anal. Chem., 1997, 66, 51.
M. A. Thaer, Anal. Sci., 2001, 17, 69.
D. Afzali, M. A. Taher, A. Mostafavi, and S. Z. Mohammadi, Talanta, 2005, 65, 476.
M. A. Taher, A. Mostafavi, D. Afzali, and E. R. Pour, Bull. Korean Chem. Soc., 2004, 25, 1125.
D. Afzali, A. Mostafavi, M. A. Taher, E. Rezaeipour, and M. K. Mahani, Anal. Sci., 2005, 21, 383.
A. I. Vogel, “A Text Book of Quantitative Chemical Analysis”, 6th ed., 2000, Longmans, London.
H. Faghihian, A. Mostafavi, and A. Mohammadi, J. Sci. I. R. Iran., 2001, 12, 327.